Truyền hình thu phí Việt Nam lao đao vì dịch COVID-19

Thị trườngThứ Năm, 10/06/2021 11:53:00 +07:00
(VTC News) -

Ngoài sự cạnh tranh thiếu công bằng đến từ các kênh truyền hình nước ngoài, doanh nghiệp truyền hình thu phí tại Việt Nam còn phải gồng mình chịu đựng COVID-19.

Trước tình hình dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp trên phạm vi toàn quốc, đặc biệt làn sóng dịch thứ 4 thời gian qua đã ảnh hưởng rất tiêu cực đến tình hình sản xuất kinh doanh trên mọi lĩnh vực. 

Các doanh nghiệp truyền hình thu phí không đứng ngoài những ảnh hưởng đó, nhiều doanh nghiệp phải áp dụng các biện pháp đặc biệt để vượt qua khó khăn và duy trì dịch vụ, một số doanh nghiệp khó khăn đến mức không thể triển khai được hoạt động kinh doanh theo kế hoạch, cá biệt có doanh nghiệp đã rút lui khỏi thị trường dịch vụ.

Tính đến hết tháng 11 năm 2021, cả nước có 37 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền hình thu phí, đưa dịch vụ này có mặt tại gần 70% tổng số hộ gia đình cả nước, đạt xấp xỉ 17 triệu thuê bao, doanh thu trên 9.000 tỷ đồng. 

Việt Nam hiện có tổng cộng 10 triệu thuê bao truyền hình cáp, 200.000 thuê bao truyền hình mặt đất, 1 triệu thuê bao truyền hình số vệ tinh, 1 triệu thuê bao truyền hình Internet và khoảng 480.000 thuê bao truyền hình di động.

Các nội dung truyền hình cung cấp đến thuê bao rất phong phú, đa dạng gồm gần 300 kênh truyền hình trong nước và ngoài nước, hàng vạn giờ nội dung truyền hình chuyên đề cho phép xem trực tiếp và trực tuyến theo yêu cầu với chất lượng kỹ thuật rất cao.

Truyền hình thu phí Việt Nam lao đao vì dịch COVID-19 - 1

Doanh nghiệp truyền hình thu phí Việt Nam lao đao vì COVID-19.

So với khu vực thì Việt Nam là quốc gia có doanh thu trung bình trên một khách hàng (ARPU) của truyền hình thu phí đang ở mức rất thấp. ARPU của khu vực ASEAN trung bình đạt 10-30USD/thuê bao/tháng. Trong đó, Singapore có chỉ số ARPU cao nhất, đạt 32 USD/thuê bao/tháng; Philippines ở mức thấp, nhưng cũng đạt 9 USD/thuê bao/tháng. Trong khi, Việt Nam chỉ đạt hơn 18.333 đồng/thuê bao/tháng, tức là dưới 1 USD/thuê bao/tháng.

Đây là hệ quả của cuộc đua giảm giá thuê bao kéo dài từ năm 2014 đến nay của các nhà cung cấp như trong nước nhằm thu hút khách hàng. Bên cạnh đó, một số nhà cung cấp sử dụng chiến thuật bù chéo dịch vụ, xây dựng 1 gói cước tổng hợp gồm 2-3 dịch vụ, phổ biến là kết hợp gói cước Internet và truyền hình thu phí, áp dụng chính sách dùng Internet được miễn phí truyền hình hoặc ngược lại.

Giữa đại dịch COVID-19, thị trường truyền hình thu phí bị bủa vây bởi nhiều khó khăn, với hàng loạt chi phí phát sinh, phí mua bản quyền nội dung ngày một đắt đỏ. Tuy nhiên, chưa dừng ở đó, doanh nghiệp trong nước còn đang phải chạy theo một cuộc đua không cân sức với các doanh nghiệp ngoại.

Tại Việt Nam hiện có nhiều dịch vụ truyền hình nước ngoài đang hoạt động và có thu tiền định kỳ như: Netflix, Apple TV+ (Mỹ), WeTV, iQiYi (Trung Quốc)... Điểm chung của các dịch vụ này là cung cấp chủ yếu trên các nền tảng Internet như website, ứng dụng trên điện thoại…

Trong khi đó, truyền hình thu phí truyền thống trong nước hoạt động tốt trong vòng 20 năm qua nhưng đến lúc này công nghệ lại chưa theo kịp được, chưa làm thỏa mãn được nhu cầu của người dùng. Bởi vì công nghệ OTT ưu việt hơn hẳn truyền hình cáp, vệ tinh hay truyền hình qua giao thức internet IPTV ở chỗ: ở đâu có Internet thì họ có thể xem truyền hình.

Không chỉ thua kém về công nghệ, đáng nói hơn, các doanh nghiệp nội còn nguy cơ thua trên "sân nhà" vì "thiệt đơn, thiệt kép". Trong khi các nhà cung cấp dịch vụ truyền hình nội địa phải nộp thuế, chịu nhiều kiểm soát chặt chẽ thì các doanh nghiệp nước ngoài lại không phải chịu bất cứ rào cản nào khi hoạt động tại Việt Nam.

Cuộc cạnh tranh không tương xứng này khiến doanh nghiệp Việt đã khó nay càng khó hơn để có được thị phần và giữ chân khách hàng trong nước. Tiềm lực tài chính dồi dào để tự sản xuất phim hay mua bản quyền phim là điều mà các doanh nghiệp ngoại làm rất tốt. Kết quả đã được chứng minh rất rõ khi doanh thu của họ tăng theo cấp số nhân.

Trên thực tế, hiện các doanh nghiệp OTT nước ngoài đã chiếm một lượng lớn khách hàng truyền thống của Việt Nam mà chủ yếu là khách hàng trẻ ở đô thị. 

Nhiều chuyên gia cho rằng việc biến thách thức thành cơ hội trên thị trường truyền hình thu phí không chỉ đòi hỏi những bước đi sáng tạo, đột phá từ các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hay đơn vị sản xuất nội dung mà còn phụ thuộc rất lớn vào hành lang pháp lý để điều tiết cũng như tạo sự bình đẳng trên thị trường.

Trong bối cảnh thích ứng an toàn với dịch bệnh COVID-19 và phục hồi kinh tế. Lĩnh vực dịch vụ truyền hình thu phí trong nước đang đứng trước một số thách thức không nhỏ về áp lực cạnh tranh không bình đẳng đến từ các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp dịch vụ truyền hình xuyên biên giới vào Việt Nam. 

Vì vậy, để có thể duy trì thị trường dịch vụ ổn định, cạnh tranh và phát triển lành mạnh, cần thiết phải có những quy định mới sát thực tiễn để quản lý các dịch vụ truyền hình từ nước ngoài cung cấp xuyên biên giới vào Việt Nam nhằm ngăn chặn kịp thời các hoạt động hết sức nguy hại, như: xâm lăng văn hóa, phổ biến các giá trị sống phương Tây thiếu chọn lọc đến giới trẻ, làm méo mó thị trường dịch vụ trong nước và làm suy yếu ngành sản xuất nội dung trong nước.

Hy vọng rằng, trong năm 2022, phát huy những kết quả tích cực của năm 2021, các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương đồng hành cùng các doanh nghiệp lĩnh vực dịch vụ truyền hình thu phí tiếp tục vượt qua khó khăn để giữ vững ổn định, từng bước phát triển và làm chủ hoàn toàn thị trường dịch vụ trong nước.

HẠO NHIÊN
Bình luận
vtcnews.vn