Nền móng nhà máy thuỷ điện Hoà Bình suýt bị sông Đà nhấn chìm ra sao?

Thời sựThứ Bảy, 26/11/2016 12:55:00 +07:00

Những trận mưa lớn chưa từng thấy vào tháng 1/1995 từng khiến công trình xây dựng nhà máy thủy điện trên sông Đà từng đứng trước nguy cơ bị xóa sổ.

Sự cố đã xảy ra vào tháng 1/1995.

Hai năm trước đó, con sông Đà bất trị đã bị chặn lại. Dòng chảy của nó được chuyển sang kênh nhân tạo dẫn dòng, mà thượng lưu và hạ lưu của kênh đều có đê quai.

Trong suốt hai năm liền kể từ đó, công việc xây dựng nhà máy thủy điện tiếp tục bình thường đúng theo kế hoạch mà không gặp bất kỳ trục trặc hay sự cố nào. 

Tuy nhiên, đến tháng 1/1995, những trận mưa lớn chưa từng thấy đã nâng mực nước sông Đà lên mức cảnh báo. Nước đe dọa nhấn chìm hố móng, nơi đang thực hiện các công việc cơ bản để xây dựng nhà máy thủy điện. Tất cả những gì mà hàng chục nghìn công nhân xây dựng tạo ra trong sáu năm cùng hệ thống máy móc và trang thiết bị Liên Xô cung cấp cho trạm thủy điện tương lai bỗng chốc bị đe dọa. 

2636208

Ảnh tư liệu về nhà máy thủy điện sông Đà 

Khi đó, ông Ngô Xuân Lộc, chuyên gia Việt Nam tốt nghiệp đại học ở Liên Xô và trưởng nhóm chuyên gia Liên Xô Pavel Bogachenko quyết định đưa các công nhân đang làm việc ở hồ móng và đường hầm đi sơ tán, đồng thời điều toàn bộ xe tải của công trình ra vùng đê quai để củng cố và nối dài đê quai ngăn nước.

Mực nước tiếp tục lên cao. Chỉ còn khoảng nửa mét là đê quai sẽ bị ngập nước. Nhưng mọi người đều quyết tâm mở chiến dịch phản công: dù có nguy cơ rơi xuống nước mà mực nước ngập đến nửa bánh xe, những chiếc xe tải vẫn tiếp tục chở đá hộc lao xuống nước.

Ông Ngô Xuân Lộc và ông Pavel Bogachenko trực tiếp chỉ đạo dòng xe ra vào, họ đứng ở ngay vị trí nguy hiểm nhất. Cuộc đấu trí đấu lực với thiên tai đã kéo dài hai ngày đêm. Vào giờ phút nguy hiểm nhất chỉ còn khoảng 20cm nữa là đê quai sẽ ngập nước.

Nhưng rồi sau đó mực nước bắt đầu giảm. Ngày hôm sau, các chuyên gia Liên Xô đã nhận được bức thư của các đồng chí Việt Nam lãnh đạo công trường xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình. Trong đó có đoạn viết:

"Theo chủ nghĩa quốc tế, các đồng chí tận tâm làm việc tại công trường xây dựng là biểu tượng cao đẹp của tình hữu nghị Xô-Việt. Các đồng chí hiến dâng toàn bộ sức lực, hiểu biết và trái tim cho đất nước Việt Nam, quê hương của chúng tôi. Đây chính là tình hữu nghị anh em giữa hai nước chúng ta. Chúng tôi tin vào thành công chung mới của chúng ta".

song-da5-large

Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình

Và những thành công mới đã sớm đến. Tháng Giêng năm 1986, các công nhân xây dựng đã hoàn thành việc ngăn nhánh sông nhân tạo và bắt đầu đưa nước vào hồ chứa. Toàn bộ công trình thủy điện đã vượt qua một thử thách nghiêm trọng vào tháng 7 năm đó, khi lũ trên sông Đà dâng tới mức nước tối đa với lưu lượng dòng chảy là 13,5 nghìn mét khối/giây.

Trong năm 1987, các công nhân đã thực hiện thành công nhiệm vụ nâng cao mức đập lên 60 mét trong thời gian 6 tháng, là tốc độ nhanh chưa từng thấy về xây dựng thủy điện.

Đến giữa năm 1987, ngoài tổ hợp hầm ngầm, các cơ sở thủy điện chính đã sẵn sàng chịu áp lực nước. Đập ngăn sông Đà được hoàn thành với chiều dài 743 mét, cao 128 mét. Tiếp đến, sâu trong lòng núi bên trái bờ đập, những nhà xây dựng đường tầu điện ngầm Matxcơva đã cắt xong cửa thoát đưa nước vào tuốc bin thủy lực, mở đường và thi công buồng máy.

Kích thước buồng máy cũng gây ấn tượng lớn với chiều dài bằng 1/4 kilomet, chiều rộng 20 mét và chiều cao 55 mét. Bên trong buồng máy có 8 động cơ tuốc bin với tổng công suất 1.920 Megawatt. Sâu xuống dưới hàng chục mét là gian dành cho các tuốc bin, trạm biến áp và thiết bị phụ trợ. Toàn bộ tổ máy được khoét trong những vách đá rắn chắc.

6

Thủy điện Hòa Bình được coi là một trong những dự án hợp tác lớn nhất giữa Liên Xô và Việt Nam, là một ví dụ nổi bật về tình hữu nghị Việt - Xô. 

Ông Nguyễn Văn Thành, Giám đốc nhà máy thuỷ điện đã nhận xét rằng "chỉ có thể phá hủy đập nếu ném trúng một trái bom nặng vài tấn, khi ấy các hoạt động khôi phục đất đá và bê tông sẽ khá phức tạp. Nhưng tất cả các thiết bị của nhà máy sẽ vẫn an toàn, ngay cả sau khi nổ quả bom có sức công phá mạnh hơn".

Trước thềm năm mới 1989, tổ máy đầu tiên của nhà máy đã được đưa vào khai thác công nghiệp. Tổ máy cuối cùng được đưa vào vận hành vào tháng 4 năm 1994. Thủy điện Hòa Bình đã được khánh thành vào tháng 12/1994. Khó có thể đánh giá hết ý nghĩa của Thủy điện Hòa Bình, cơ sở này trở thành công trình thuỷ lực lớn nhất ở Đông Nam Á.

Nhà máy trên sông Đà đã giải quyết những vấn đề phát triển kinh tế quan trọng nhất đối với Việt Nam khi ấy. Trước hết là làm gia tăng đáng kể sản lượng điện lực, tạo điều kiện sử dụng toàn bộ nguồn lực sản xuất của ngành công nghiệp phía Bắc Việt Nam.

Từ năm 1995, xét về mức tiêu thụ điện năng, Việt Nam tự trở thành một trong những nước đi đầu trong khu vực Đông Nam Á. Hồ chứa nước với diễn tích 200km vuông và dung lượng gần sáu tỷ mét khối nước cho phép điều chỉnh an toàn chế độ nước trong khu vực rộng lớn, trong đó có hơn một triệu hecta lúa.

Công trình thuỷ điện còn tác động tới hoạt động hàng hải trên sông Đà. Phía trên hồ nước khoảng 200 kilomet, các tầu bè tích cực đi lại. Hàng trăm chuyên gia Liên Xô tham gia xây dựng các nhà máy thủy điện đã được tặng các phần thưởng cao quý của Việt Nam.

Chuyên viên Xô Viết chính của công trình xây dựng nhà máy thủy điện Hòa Bình, ông Pavel Bogachenko được tặng danh hiệu Anh hùng Lao động Việt Nam.

Hiện nay Thủy điện Hòa Bình có tầm quan trọng lớn đối với Việt Nam. Nhà máy này được coi là một trong những dự án hợp tác lớn nhất giữa Liên Xô và Việt Nam, là một ví dụ nổi bật về tình hữu nghị Việt- Xô.

Nguồn: Sputnik
Bình luận
vtcnews.vn