Nếu Trái đất chỉ còn lại 2 người, điều đương nhiên là thế hệ tiếp theo sẽ là anh chị em ruột và các thế hệ kế tiếp đó là họ hàng của nhau.
Nhưng nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng nếu những người họ hàng lập gia đình và có con với nhau, đó sẽ là một bi kịch.
Một thống kê ở Czech trong giai đoạn 1933-1970 cho thấy những đứa trẻ là kết quả của các cuộc hôn nhân cận huyết có tỷ lệ tử vong cao hơn những đứa trẻ bình thường. Chúng thường mang trong mình các khuyết tật về cơ thể và tinh thần.
Nhiều năm sau đó, tình trạng mù màu lan rộng trên đảo Pingelap sau khi một cơn bão khủng khiếp quét qua đây cướp đi sinh mạng của gần như toàn bộ cư dân của hòn đảo trên châu Đại dương. Nguyên nhân là bởi 20 người còn sống sót đã kết hợp với nhau để tái sinh một cộng đồng mới.
Các cuộc hôn nhân chiến lược giữa các thành viên trong hoàng gia châu Âu cũng là những ví dụ điển hình khác. Vua Charles II của Tây Ban Nha mang trong mình những khuyết tật bẩm sinh vì hệ số cận huyết cao do thừa hưởng nhiều gen giống hệt từ cả bố và mẹ.
Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng nguyên nhân cơ bản dẫn tới hệ quả tai hại của giao phối cận huyết nằm ở một nhóm gen nhỏ.
Các bệnh di truyền hiếm gặp như mù màu thường xuất hiện ở những người được truyền các gen lặn từ cả bố và mẹ. Nếu cha mẹ là anh chị em, các gen lặn này sẽ dễ truyền sang con của họ hơn các cặp đôi không có quan hệ họ hàng. Và khi trở thành gen trội, nó sẽ dễ dàng truyền qua các thế hệ.
Ngoài ra, sự đa dạng về di truyền cho phép các loài khắc phục các vấn để thay đổi trong môi trường, khi giao phối cận huyết, điều này sẽ mất đi. Mặc dù vậy không phải là không có những ngoại lệ.
Lịch sử văn minh nhân loại từng chứng kiến nhóm 18 gia đình đã phát triển thành một cộng đồng người Hutterite đông đúc ở Bắc Mỹ.
"Bằng chứng về tác động ngắn hạn của đa dạng di truyền là rất mạnh nhưng tất cả đều có xác suất. Có những câu chuyễn về những chuyến đi kinh ngạc trở lại từ bờ vực và mọi thứ đều có thể xảy ra", nhà nhân chủng học John Moore cho biết.
Bình luận