Làm gì để bảo vệ tổ quốc?

Thời sựChủ Nhật, 12/06/2011 03:25:00 +07:00

(VTC News) - Sức mạnh của chúng ta là sức mạnh chính nghĩa, sức mạnh của lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần “Đoàn kết! Đoàn kết! Đại đoàn kết” - Ls. Lê Thanh Sơn


(VTC News) - Chúng ta kiên trì bằng biện pháp hòa bình, công khai minh bạch để dư luận nhân dân thế giới, trong đó có cả nhân dân Trung Quốc hiểu được Việt Nam là nước yêu chuộng hòa bình. Nhưng khi đứng trước nguy cơ mất chủ quyền thì nhân dân Việt Nam sẽ làm tất cả để bảo vệ nó. Đó là điều bất biến.

Trong những ngày vừa qua dư luận trong nước và quốc tế đặc biệt quan ngại về vụ việc ngày 26/05/2011 ba tàu Hải giám Trung Quốc đã xâm phạm vùng lãnh hải của Việt Nam và thực hiện hành vi cắt cáp tàu Bình Minh 02 của Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam (PVN) trong khi đang làm nhiệm vụ thăm dò địa chấn tại vị trí cách mũi Đại Lãnh, tỉnh Phú Yên 120 hải lý nằm trong khu vực thềm lục địa của Việt Nam.

Sự kiện này đã dấy lên làn sóng dư luận phản đối từ phía Việt Nam và cộng đồng quốc tế. Thậm chí vụ việc này đã được đề cập tại Hội nghị An ninh Châu Á lần thứ 10 tổ chức tại Singapore qua phần phát biểu ngắn gọn rõ ràng và khúc triết về chủ đề “Ứng phó với các thách thức an ninh trên biển” của Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Phùng Quang Thanh.

Bộ trưởng Phùng Quang Thanh (hàng đầu, giữa) tại Hội nghị An ninh Châu Á lần thứ 10. Ảnh: Chụp màn hình TV


Bên cạnh đó các tàu hải giám và ngư chính của Trung Quốc còn có hành vi đe dọa, ngăn cản các tàu của ngư dân Việt Nam đánh cá tại các khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Nghiêm trọng hơn, vào hồi 6h sáng ngày 9/6, Tàu thăm dò địa chấn 3D Viking II do liên doanh CGG Veritas (Pháp) được Tổng công ty cổ phần Dịch vụ kỹ thuật dầu khí Việt Nam (PTSC) thuê trong khi đang thu nổ địa chấn tại lô 136.03, tại tọa độ 6 độ 47,5 phút bắc; 109 độ 17,5 phút kinh đông thuộc phạm vi 200 hải lý trên thềm lục địa Việt Nam thì một tàu cá Trung Quốc mang số hiệu 6226 được sự yểm trợ của hai tàu ngư chính Trung Quốc mang số hiệu 311 và 303 đã cố tình chạy cắt ngang phần dây kéo giữ thiết bị dàn trải cáp thu và phá hoại 4 đường cáp thu phía bên trái tàu.

Mặc dù trước đó, Tàu Viking II đã phát tín hiệu cảnh cáo nhưng tàu cá Trung Quốc được sự yểm trợ của hai tầu ngư chính Trung Quốc vẫn cố tình thực hiện hành vi phá cáp của Viking II. Trước đó, vào ngày 31/5, Tàu Viking cũng đã bị tàu Trung Quốc quấy rối khi đang khảo sát cho tập đoàn Nhật Idemitsu tại lộ 05-1D trong khu vực gần mỏ Đại Hùng thuộc vùng biển Vũng Tàu của Việt Nam.

Tọa độ 6o49’9”N, 109o16’2”E chỗ tàu Viking II của Việt Nam bị cắt cáp.
Ảnh: PetroTimes
 

Như vậy, có thể nói rằng việc Trung Quốc sử dụng các loại tầu đánh cá, tàu quân sự trá hình thành tàu ngư chính hoặc hải giám để thực hiện hàng loạt các hành vi xâm phạm chủ quyền lãnh hải nhằm ngăn cản, phá hoại tài sản đối với các hoạt động đánh cá, thăm dò khai thác tài nguyên của Việt Nam tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ngày càng trở nên trầm trọng hơn.

Để cho công luận hiểu rõ hơn những hành vi vi phạm pháp luật quốc tế của Trung Quốc, chúng tôi, những luật sư thuộc Văn Phòng Luật Sư AIC (AIC Lawyers & Consultants), Đoàn Luật Sư Thành Phố Hà Nội cùng với hàng loạt các luật sư thuộc mười văn phòng và công ty luật khác tại Việt Nam xin được đưa ra những phân tích, nhận định, đánh giá về mặt pháp lý đối với các hành vi này. Đồng thời, với sự hiểu biết của mình, chúng tôi cũng mạnh dạn xin đưa ra một số kiến nghị, đề xuất về định hướng giải quyết vụ việc nhằm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam tránh sự việc tái diễn gây bất ổn trong khu vực.

1.    Các hành vi vi phạm của Trung Quốc và cơ sở pháp lý chứng minh hành vi vi phạm.

Trở lại vụ việc xảy ra vào ngày 26/5/2011 khi tàu Bình Minh 02 của Tổng công ty cổ phần Dịch vụ kỹ thuật dầu khí thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam - PVN đang tiến hành thăm dò địa chấn tại vị trí cách Mũi Đại Lãnh, tỉnh Phú Yên 120 hải lý trên thềm lục địa của Việt Nam thì bị ba tàu Hải giám của Trung Quốc thả dây cáp và cắt cáp thăm dò địa chấn của tàu Bình Minh 02 và có hành vi cản trở, thậm chí đe dọa tàu Bình Minh 02 và cho rằng tàu Bình Minh đã vi phạm chủ quyền của Trung Quốc.

Tàu hải giám Trung Quốc nhìn từ tàu Bình Minh 02.
 Ảnh: CTV
 


Đối với trường hợp xảy ra ngày 9/6, Tàu Viking II đang hoạt động thăm dò tại vị trí lô 136.03, tại tọa độ 6 độ 47,5 phút bắc; 109 độ 17,5 phút kinh đông thuộc phạm vi 200 hải lý trên thềm lục địa Việt Nam thì bị tàu cá có sự yểm trợ của hai tàu ngư chính Trung Quốc cắt cáp. Cả hai trường hợp nêu trên các tàu của Việt Nam đều đang hoạt động thăm dò thuộc chủ quyền lãnh hải của Việt Nam theo quy định tại Khoản 1 Điều 76 của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (xin trích nguyên văn):

Item 1, Article 76 of United Nations Convention on Law of the sea :
“The continental shelf of a coastal State comprises the seabed and subsoil of the submarine areas that extend beyond its territorial sea throughout the natural prolongation of its land territory to the outer edge of the continental margin, or to a distance of 200 nautical miles from the baselines from which the breadth of the territorial sea is measured where the outer edge of the continental margin does not extend up to that distance.”


Tạm dịch:
Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó không vượt quá  khoảng cách này.

Đồng thời tại Khoản 1, Điều 77 Công ước Liên Hiệp quốc về Luật biển cũng quy định rằng:

(Item 1, Article 77 of United Nations Convention on Law of the sea):
“The coastal State exercises over the continental shelf sovereign rights for the purpose of exploring it and exploiting its natural resources.”

Tạm dịch:
“Quốc gia ven biển được thực thi các quyền thuộc chủ quyền đối với thềm lục địa về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình.”

Điều 57 Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển cũng đã quy định về vấn đề này như sau:

(Article 57 United Nations Convention on Law of the sea):
“The exclusive economic zone shall not extend beyond 200 nautical miles from the baselines from which the breadth of the territorial sea is measured.”

Tạm dịch:
“Vùng đặc quyền về kinh tế không được mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.”

Như vậy, căn cứ vào Điều 57 và Khoản 1 và Điều 77 của Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển  1982 thì Tàu Bình Minh 02 và tàu Viking II đều thực hiện việc thăm dò địa chấn tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và Việt Nam hoàn toàn có chủ quyền đối với việc thăm dò, khai thác trong vùng đặc quyền kinh tế này theo quy định nêu trên.

Bất cứ quốc gia nào hay bất cứ thế lực nào ngăn cản những hoạt động bình thuờng nhằm mục đích kinh tế của tàu Bình Minh 02 và tàu Viking II là vi phạm Hiến chương Liên Hiệp Quốc về Luật biển.

Hành động xâm phạm vùng biển, uy hiếp, đe dọa, ngăn cản và phá hoại bằng hành vi cắt cáp tàu Bình Minh 02 và Tàu Viking II của các tàu hải giám và tàu ngư chính Trung Quốc là trái với các quy tắc ứng xử quốc tế và vi phạm nghiêm trọng Công ước Luật biển quốc tế 1982 bởi:

-    Thứ nhất: Các tàu hải giám và ngư chính Trung Quốc đã xâm phạm vùng biển thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam được quy định tại Điều 57 Công ước Luật biển quốc tế năm 1982.

-    Thứ hai: Với tư cách là thành viên Liên Hiệp Quốc và của các Công ước quốc tế về biển, các tuyên bố khu vực thì Trung Quốc buộc phải tuân thủ một cách đầy đủ các cam kết của mình. Với hành động đe dọa ngăn cản và phá hoại hoạt động bình thường của các tàu Bình Minh 02 và Viking II nằm sâu trong vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Trung Quốc cũng đã vi phạm nghiêm trọng Hiến Chương Liên Hiệp Quốc quy định về việc các quốc gia không được tiến hành các hành vi bạo lực hay đe dọa dùng vũ lực để giải quyết các tranh chấp quốc tế.

Cụ thể tại Khoản 3, khoản 4 Điều 2 Hiến chương Liên Hiệp Quốc đã quy định:

( Item 3,4 Article 2 of Charters of United Nations)

“3. All Members shall settle their international disputes by peaceful means in such a manner  that international peace and sercurity and justice are not endangered
4. All Members shall refrain in their international relations from the threat or use of force against the territorial integrity or political independence of any state, or in any other manner inconsistent with the Purposes of the United Nations.”


Tạm dịch:
“3. Tất cả các Thành viên giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng biện pháp hòa bình, theo cách không làm nguy hại đến hòa bình và an ninh quốc tế, và công lý.
4. Tất cả các Thành viên đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, hoặc bằng bất cứ phương cách nào trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào, là trái với những Mục đích của Liên Hiệp Quốc.”

Đồng thời, Điều 301 của Hiến chương Liên Hiệp Quốc cũng quy định cụ thể về việc không được sử dụng vũ lực hoặc đe dọa để xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải của mỗi quốc gia.

(Article 301 of of United Nations Convention on Law of the sea )

“Peaceful uses of the seas
In exercising their rights and performing their duties under this Convention, States Parties shall refrain from any threat or use of force against the territorial integrity or political independence of any State, or in any other manner inconsistent with the principles of international law embodied in the Charter of the United Nations.”


Tạm dịch:
“Việc sử dụng biển vào những mục đích hòa bình
Trong việc áp dụng các quyền và thực hiện nghĩa vụ của mình theo Công ước này, các quốc gia thành viên không được đe dọa hay sử dụng vũ lực để xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ hay độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào hoặc không được sử dụng bất kỳ phương cách nào khác trái với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế đã được quy định tại trong Hiến chương Liên hợp quốc.”


Thứ ba. Trung Quốc cũng vi phạm nghiêm trọng những cam kết của chính mình được nêu tại Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông – DOC 2002 mà Trung Quốc và ASEAN đã cam kết về việc  giải quyết các tranh chấp về biển Đông như sau:

4. The Parties concerned undertake to resolve their territorial and jurisdictional disputes by peaceful means, without resorting to the threat or use of force, through friendly consultations and negotiations by sovereign states directly concerned, in accordance with universally recognized principles of international law, including the 1982 UN Convention on the Law of the Sea;

5. The Parties undertake to exercise self-restraint in the conduct of activities that would complicate or escalate disputes and affect peace and stability including, among others, refraining from action of inhabiting on the presently uninhabited islands, reefs, shoals, cays, and other features and to handle their differences in a constructive manner.”


Tạm dịch:
4. Các bên liên quan cam kết giải quyết những tranh chấp lãnh thổ và quyền tài phán bằng các biện pháp hòa bình, không đe dọa sử dụng hay sử dụng vũ lực, thông qua tham khảo ý kiến và thương lượng hữu nghị giữa các quốc gia có chủ quyền trực tiếp liên quan, phù hợp với các nguyên tắc được công nhận của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982.
5.Các bên liên quan cam kết tự kiềm chế không tiến hành các hoạt động làm phức tạp hoặc gia tăng các tranh chấp và ảnh hưởng tới hòa bình và ổn định, kể cả không tiến hành các hoạt động đưa người đến sinh sống trên các đảo, bãi đá ngầm, bãi cát ngầm, dải đá ngầm và những cấu trúc khác hiện chưa có người sinh sống và xử lý các bất đồng một cách xây dựng;”

Trong tuyên bố về DOC 2002: Trung Quốc và các nước ASEAN đã sử dụng những cụm từ như: “cam kết giải quyết những tranh chấp lãnh thổ và quyền tài phán bằng các biện pháp hòa bình, không đe dọa sử dụng hay sử dụng vũ lực,không tiến hành các hoạt động làm phức tạp hoặc gia tăng các tranh chấp và ảnh hưởng tới hòa bình và ổn định.”

Mặc dù, trong tuyên bố các bên đã cam kết không sử dụng bạo lực để giải quyết tranh chấp tuy nhiên, Trung Quốc đã dùng bạo lực, cố ý gây hấn đối với Việt Nam, hành động này vi phạm trắng trợn tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông.

Như vậy, với việc liên tục thực hiện các hành vi xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế, cắt cáp, phá hoại, ngăn không cho tiến hành hoạt động thăm dò, nghiên cứu địa chấn của tàu Bình Minh 02 và tàu Viking II, phía Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, vi phạm Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, Công ước quốc tế về Luật biển 1982 và Tuyên bố về cách ứng xử biển Đông DOC 2002.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu bên cạnh một tư liệu lịch sử chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Ảnh: VNE

2.    Kết luận
Trước những hành động ngang ngược đe dọa sử dụng vũ lực của Trung Quốc xâm phạm tới vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, chúng ta cần giải quyết vấn đề này một cách khôn khéo, linh hoạt, mềm dẻo nhưng cương quyết thông qua con đường ngoại giao, thương lượng trong hòa bình đồng thời kiên quyết đấu tranh trên phương diện pháp lý nhằm đáp trả những hành động bạo lực của Trung Quốc, ngăn chặn nguy cơ tái diễn trong tương lai. Để thực hiện được mục tiêu này, chúng ta cần áp dụng một số biện pháp sau:

-    Quốc tế hóa vấn đề biển đông
Sử dụng các kênh ngoại giao chính thức, các diễn đàn có sự tham gia của cộng đồng quốc tế đặc biệt là các diễn đàn ASEAN trở thành các diễn đàn chính trị khu vực nhằm điều phối quan điểm chung và giành lợi thế trước Trung Quốc. Đồng thời lôi kéo sự quan tâm của cộng đồng thế giới đến các tranh chấp Biển Đông và chỉ ra rằng đây không chỉ là tranh chấp giữa Việt Nam mà còn là tranh chấp của các nước trong khối ASEAN với Trung Quốc. Để thực hiện được mục đích này cần tập hợp đầy đủ các bằng chứng và cơ sở pháp luật để chứng minh các hành vi vi phạm của phía Trung Quốc tại các diễn đàn nêu trên như vừa qua chúng ta đã khéo léo đưa vấn đề Biển Đông ra Hội nghị An ninh Châu Á lần thứ 10 tổ chức tại Singapore mà lãnh đạo Bộ Quốc Phòng đã có những phát biểu được dư luận đánh giá là mang tầm cao chiến lược, đóng góp vào quá trình phát triển ổn định của khu vực.

-    Công khai hóa vấn đề Biển Đông
Công khai hóa các tranh chấp Biển Đông trước công luận trong nước và quốc tế để từ đó tận dụng báo chí truyền thông trong nước và quốc tế như một phương tiện hữu hiệu chứng minh chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam và đưa ra những quan điểm khách quan, toàn diện về mọi khía cạnh liên quan đến nguyên nhân tranh chấp và các hành vi vi phạm của phía Trung Quốc. Việc công bố rộng rãi các thông tin này đến toàn thể nhân dân và cộng đồng quốc tế sẽ tạo được sự hiểu biết và ủng hộ mạnh mẽ của dư luận quốc tế đối với Việt Nam.
 
-    Đàm phán đa phương.
Xây dựng và áp dụng triệt để phương án giải quyết tranh chấp Biển Đông thông qua đàm phán đa phương, tuyệt đối tránh đàm phán song phương với Trung Quốc để không rơi vào trạng thái tự cô lập mình.
Tận dụng lợi thế trong ASEAN, Việt Nam chủ động đưa vấn đề tranh chấp biển đông ra các diễn đàn khu vực và thúc đẩy các nước ASEAN đặc biệt là các nước có cùng lợi ích trực tiếp tại biển đông cùng hợp tác với Việt Nam đàm phán với Trung Quốc. Để đạt được mục tiêu này, cần thiết phải  đưa ra những thông điệp đối với các nước trong khu vực có đường biên giới chung trên biển với Trung Quốc cảnh báo về việc lợi ích của chính họ cũng sẽ bị xâm phạm đồng thời khuyến khích hợp tác giữa các quốc gia ASEAN nêu cao tinh thần đoàn kết chống lại chủ trương “đường 9 khúc” của Trung Quốc. Bằng những hành động cụ thể chứng minh cho họ thấy “môi hở thì răng lạnh”, hôm nay chủ quyền của Việt Nam bị xâm phạm thì ngày mai sẽ tới lượt đất nước họ. Từ đó, các nước cùng có lợi ích tại Biển Đông cùng với các quốc gia khác có lợi ích kinh tế liên quan cùng tham gia đàm phán đa phương với Trung Quốc trong quá trình giải quyết tranh chấp Biển Đông.
 
-    Nhằm đối phó với các tình huống có nguy cơ tái diễn tương tự như vụ tàu Bình Minh 02, tàu Viking II chúng ta cần có những hành động cụ thể như:
 

Xây dựng lực lượng bán quân sự trên biển nhằm mục đích bảo vệ an toàn tốt nhất cho các hoạt động kinh tế diễn ra hàng ngày trên biển như: khai thác khoáng sản, đánh bắt, nuôi trồng thủy sản cùng các hoạt động khác diễn ra trên biển.

Đây là phòng tuyến đầu tiên, là lực lượng thường trực trong mọi trường hợp nếu xảy ra sự cố họ có nhiệm vụ tiên phong bảo vệ vùng biển, đảo kết hợp nhuần nhuyễn với lực lượng an ninh, quốc phòng bảo đảm an toàn cho mọi hoạt động trên biển, đồng thời sẽ đáp trả khi cần thiết.

3. Đề xuất
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam với tư cách là quốc gia bị Trung Quốc xâm phạm lãnh hải, xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam đối với vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam, cần thiết phải áp dụng các biện pháp kiên quyết nhằm tự vệ mà vẫn tránh được các hành động thiếu kiềm chế dẫn đến xung đột leo thang hoặc tranh chấp vũ trang trên biển.

Theo đó, việc đấu tranh trên mặt trận pháp lý là cần thiết, hữu hiệu và vô cùng quan trọng. Đồng thời, PVN với tư cách là đơn vị bị thiệt hại về tài sản do các hành vi vi phạm của Trung Quốc, ngay lập tức cần thiết phải có phản ứng quyết liệt bằng cách khởi kiện Trung Quốc ra cơ quan tài phán quốc tế yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tài sản.

Việc khởi kiện sẽ tạo ra một tiếng nói chung thể hiện ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam sẽ tạo uy tín cho Việt Nam trước cộng đồng thế giới đồng thời cũng để cho công luận quốc tế có được cái nhìn xác thực, khách quan đối với các tranh chấp tại Biển Đông với Trung Quốc mà Việt Nam chỉ là một trong những quốc gia đang phải đối mặt với thách thức này.

Để thực hiện được mục tiêu này chúng tôi xin được đưa ra đề xuất như sau:

Về phía Chính Phủ Việt Nam
Cần phải có những hành động mạnh mẽ thể hiện ý chí quyết tâm trong việc bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với các vùng biển và hải đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Các hành động đấu tranh trên mặt trận ngoại giao cần thiết phải được thực hiện ngay như gửi công hàm chính thức phản đối Trung Quốc cần phải được đệ trình lên Liên Hợp Quốc tố cáo về các hành vi xâm phạm lãnh hải, đe dọa sử dụng vũ lực để ngăn cản các hoạt động bình thường của các ngư dân và doanh nghiệp Việt Nam tại vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam được quy định tại Hiến Chương Liên Hiệp Quốc,  Công ước quốc tế về Luật biển 1982 và Tuyên bố về cách ứng xử biển Đông DOC 2002.

Chúng ta cần phải có những hành động mạnh mẽ thể hiện ý chí quyết tâm trong việc bảo vệ chủ quyền của đất nước. Ảnh: Sưu tầm Internet 


Đối với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam – PVN:

PVN cần thiết phải đề cử các luật sư đại diện tiến hành các thủ tục khởi kiện nhà nước Trung Quốc tại cơ quan tài phán quốc tế yêu cầu:

-    Chấm dứt các hành vi trực tiếp gây thiệt hại cho các doanh nghiệp của PVN đang hoạt động kinh tế trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam;
-    Yêu cầu Nhà nước Trung Quốc phải có nghĩa vụ bồi thường toàn bộ thiệt hại cho PVN do những hành vi cố ý vi phạm pháp luật quốc tế của phía Trung Quốc gây ra đối với PVN.

Về nội dung và trình tự khởi kiện, Văn phòng Luật sư AIC (AIC Lawyers & Consultants), Đoàn Luật Sư Thành Phố Hà Nội hợp tác cùng với mười Văn phòng và Công ty luật khác tại Việt Nam đề nghị được ủy quyền/đại diện cho tập đoàn Dầu khí Việt Nam – PVN tiến hành các thủ tục cần thiết để khởi kiện nhà nước Trung Quốc về các hành vi gây thiệt hại cho PVN.

4. Thay cho lời kết

Chúng ta, một dân tộc yêu chuộng hòa bình, nhưng trong con tim mỗi người dân đất Việt luôn luôn ghi nhớ trên từng thước đất của tổ quốc thân yêu bất cứ nơi đâu cũng thấm đẫm mồ hôi, máu và nước mắt của cha ông, bởi vậy bằng bất cứ giá nào chúng ta phải bảo vệ chủ quyền của dân tộc, bảo vệ giá trị cao đẹp mà tiền nhân đi trước đã giao lại trọng trách cho chúng ta.

Sức mạnh của chúng ta là sức mạnh chính nghĩa, sức mạnh của lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần “Đoàn kết! Đoàn kết! Đại đoàn kết”. Chúng ta yêu chuộng hòa bình và thấu hiểu nỗi khổ đau của một dân tộc bị đô hộ mà lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước cha ông ta đã phải bỏ ra bao mồ hôi xương máu để giữ gìn từng tấc đất thân yêu của tổ quốc.

Nhưng cũng chính từ những bài học lịch sử trải qua bao cuộc chiến tranh với các nước lớn, các thế lực thù địch, bản lĩnh Việt Nam đã được chứng minh, với hàng nghìn năm bị đô hộ mà người Việt Nam vẫn gìn giữ được non sông gấm vóc của mình mà không bị các dân tộc khác đồng hóa.

“Đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho ta mà hãy hỏi ta đã làm gì cho tổ quốc hôm nay”, tôi, các bạn và chúng ta - tất cả những người con dân đất Việt, bất kể tầng lớp, tôn giáo, giai cấp hãy cùng nhau bỏ qua những bất đồng chính kiến, hãy tạm gác những lợi ích trước mắt của từng cá nhân để cùng hướng về Biển Đông, nắm chặt tay nhau để tăng thêm sức mạnh bảo vệ vùng biển máu thịt của tổ quốc. Chúng tôi có niềm tin vững chắc rằng công lý sẽ được thực thi.

Bởi thế, bất kỳ một một thế lực nào đe dọa hoặc sử dụng sức mạnh vi phạm các quy định của Luật pháp quốc tế, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của chúng ta thì những người con dân đất Việt không thể khoanh tay, im lặng.

Chúng ta kiên trì bằng biện pháp hòa bình, công khai minh bạch để dư luận nhân dân thế giới, trong đó có cả nhân dân Trung Quốc hiểu được Việt Nam là nước yêu chuộng hòa bình. Nhưng khi đứng trước nguy cơ mất chủ quyền thì nhân dân Việt Nam sẽ làm tất cả để bảo vệ nó. Đó là điều bất biến.

Lịch sử dựng nước và giữ nước mấy nghìn năm đã chứng minh rằng khi đất nước có nguy cơ bị xâm phạm đến chủ quyền thì lòng yêu nước luôn luôn được kết tinh thành một khối vô cùng vững chắc và mạnh mẽ có thể cuốn phăng bất cứ kẻ thù nào.

Dân tộc Việt Nam không bao giờ chịu khuất phục trước bạo quyền. Chúng tôi tin rằng trong tâm khảm mỗi người dân đất Việt đều khắc sâu lời thơ tại “bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc”

Nam Quốc Sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.



Luật sư Lê Thanh Sơn
Văn Phòng Luật Sư AIC – Lawyers & Consultants

Bình luận
vtcnews.vn