Giá dầu xuống dưới 0 USD: Ngành dầu khí thế giới hỗn loạn thế nào?

Đầu TưThứ Ba, 21/04/2020 11:45:00 +07:00
(VTC News) -

Để ứng phó với diễn biến tiêu cực của giá dầu, nhiều công ty quốc tế lớn phải tính đến các phương án tạm ngừng sản xuất, cắt giảm đầu tư, thậm chí tuyên bố phá sản.

Dịch COVID-19 đang lan rộng và tác động nặng nề đến hầu hết các nền kinh tế, chuỗi cung ứng hàng hoá, sản xuất bị gián đoạn, đứt gãy khi nhiều quốc gia thực hiện các biện pháp phong toả, cách ly nhằm ngăn chặn dịch bệnh. Viễn cảnh về một cuộc suy thoái, khủng hoảng liên tục được phát đi ở những nền kinh tế hàng đầu thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Nhật, Anh, Italy, Đức...

Giá dầu xuống dưới 0 USD: Ngành dầu khí thế giới hỗn loạn thế nào? - 1

Bóng đen đang bao phủ ngành dầu khí toàn cầu. (Ảnh minh họa)

Tăng trưởng kinh tế chậm lại đồng nghĩa với nhu cầu năng lượng, trong đó có dầu thô, sẽ giảm khi mà nhu cầu đi lại, hoạt động giao thông vận tải gần như giảm về 0, và các hoạt động sản xuất công nghiệp đình trệ tới mức tối thiểu do chính phủ nhiều nước quyết định đóng cửa biên giới, một nửa dân cư trên trái đất bị phong toả, được yêu cầu ở nhà... Hệ luỵ của việc này là giá dầu thế giới từ đầu năm đến nay liên tục đi xuống do nhu cầu giảm mạnh. Chỉ trong 3 tháng, tính từ ngày 2/1 - 17/4, dầu WTI đã mất đến 70% giá trị.

Khi sức ép từ giảm giá vẫn đè nặng lên dầu thô do nhu cầu thị trường thì thỏa thuận cắt giảm sản lượng giữa OPEC và Nga không đạt được kết quả, cùng với đó các bên đều công bố gia tăng sản lượng sản xuất, chấp nhận giảm giá, đã giáng một đòn mạnh vào thị trường dầu khí, khiến giá dầu lao dốc, trượt sâu về mức thấp nhất trong lịch sử: dưới 0 USD/thùng.

Trong vòng xoáy khủng hoảng, suy thoái đó, mọi hình thức hoạt động liên quan đến chuỗi giá trị dầu khí đều chịu tác động nặng nề. Tình trạng tồn kho liên tục tăng do sản phẩm làm ra không bán được, các dự án đầu tư bị “đóng băng”, thậm chí nguy cơ mất cân đối tài chính dẫn tới phá sản... đã diễn ra. Để ứng phó với tác động tiêu cực như trên, nhiều công ty dầu khí quốc tế lớn đã phải tính đến các phương án tạm ngừng sản xuất, cắt giảm đầu tư, giảm hoặc cắt giảm cổ tức, bán tài sản, đóng mỏ, cắt giảm nhân sự... và thậm chí là sa thải nhân công, tuyên bố phá sản.

"Đại gia" dầu khí ExxonMobil ngày 7/4 tuyên bố sẽ cắt giảm ngân sách đầu tư 30%, nhất là trong việc thăm dò và khoan giếng mới. Tập đoàn này cũng đang hoãn quyết định đầu tư vào dự án khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mozambique và đầu tư vào Guyana, một quốc gia nằm ở phía bắc Brazil, nơi một liên doanh do ExxonMobil dẫn đầu đã phát hiện một trong những mỏ dầu lớn nhất trong những năm gần đây. Theo Andy Lipow thuộc Lipow Oil Associates, ExxonMobil là công ty dầu mỏ lớn cuối cùng tuyên bố cắt giảm ngân sách, vì ở mức giá dầu thấp như hiện nay, kế hoạch chi tiêu mà ExxonMobil đưa ra trước đó là không khả thi.

Trước đó, BP, Chevron, Royal Dutch Shell và Saudi Aramco đều đã giảm các khoản đầu tư trong phạm vi từ 20% đến 25%.

Một ví dụ điển hình gần đây là công ty dịch vụ dầu khí khổng lồ Schlumberger. Trong báo cáo ngày 17/4, công ty đa quốc gia có trụ sở tại Houston (Texas, miền Nam Mỹ) này cho biết đã lỗ ròng 7,38 tỷ USD trong quý đầu tiên của năm nay, do bị thiệt hại 8,5 tỷ USD từ tác động của đại dịch COVID-19 đối với ngành năng lượng.

Hay như Total, một trong những công ty dầu khí hàng đầu của Pháp, cho biết đã giảm hơn 3 tỉ USD các khoản đầu tư và sẽ cắt giảm đầu tư dưới 15 tỉ USD trong năm nay, tương đương giảm 20%, đồng thời sẽ tăng gấp đôi kế hoạch tiết kiệm, từ 400 lên 800 triệu euro và tạm ngưng kế hoạch mua lại cổ phần.

Trong một thông điệp gửi đến các nhân viên của Total, CEO Patrick Pouyanné cho biết: Ngân sách năm 2020 dự tính giá mỗi thùng dầu phải trên 60 USD, tuy nhiên, gần đây giá dầu đã giảm xuống dưới 35 USD/thùng. Nếu tình hình này tiếp tục diễn ra trong suốt năm thì Total sẽ lỗ 9 tỉ USD. Và để bù đắp cho sự thua lỗ, Total cần cắt giảm hơn 5 tỉ USD bằng các biện pháp: Cắt giảm 3,3 tỉ USD đầu tư (chủ yếu hỗ trợ cho lĩnh vực thăm dò, sản xuất); 0,4 tỉ USD chi phí hoạt động và 1,5 tỉ USD tạm ngưng dự án mua lại cổ phần. 

Trong khi đó, xét trên quy mô nhỏ hơn, các doanh nghiệp dầu mỏ cũng đang bị tổn thương. Tập đoàn sản xuất dầu thô lớn nhất ở Bắc Dakota, Mỹ, Whiting (Whiting Oil Corporation) với doanh thu hơn 2 tỷ USD/năm đã phải nộp đơn phá sản hôm 1/4. Theo đó, Whiting sẽ chuyển nhượng 97% cổ phần của mình cho các chủ nợ để giảm nợ 2,2 tỷ USD. Tính đến 31/12/2019, Whiting có khoản nợ 2,8 tỷ USD và 585 triệu USD tiền mặt trên bảng cân đối kế toán. Vốn hóa thị trường của hãng đã giảm xuống còn 32 triệu USD so với mức kỷ lục 15 tỷ USD năm 2011. Năm 2019, sản lượng khai thác của hãng đạt trung bình 125.000 thùng dầu quy đổi/ngày.

Để đối phó với sự sụt giảm đáng kể và đột ngột trong hoạt động của các khách hàng dầu khí, Tập đoàn Vallourec chuyên cung cấp các giải pháp đường ống cao cấp cho thị trường năng lượng, hoạt động tại hơn 20 quốc gia với 19.000 nhân viên, hôm 6/4 đã tuyên bố cắt giảm 900 việc làm ở Bắc Mỹ.

Bức tranh dầu khí thực sự đang rất khó khăn và có thể sẽ còn kéo dài và nặng nề hơn. "Có lẽ 50% các công ty thăm dò và khai thác dầu khí (E&P) niêm yết sẽ phá sản trong vòng hai năm tới", Giám đốc điều hành công ty Pioneer Natural Resources, Scott D. Sheffield cho hay.

Được biết, ngành công nghiệp dầu mỏ của Mỹ hiện phải chịu khoản nợ hơn 200 tỷ USD được thế chấp bằng nguồn dự trữ dầu khí. Nhiều doanh nghiệp dầu khí Mỹ cho hay, họ không còn khả năng trả nợ trong bối cảnh doanh thu giảm mạnh và tài sản mất giá trị. Một số tổ chức tín dụng lớn ở Mỹ được cho là đang đẩy nhanh quá trình tịch thu tài sản của các công ty dầu mỏ để tránh thua lỗ và nợ xấu.

Ngành công nghiệp dầu khí toàn cầu có thể nói đang trong giai đoạn khó khăn nhất trong lịch sử. Và khác với các cuộc khủng hoảng trước đó, cuộc khủng hoảng dầu khí hiện nay đang từ đồng thời 2 phía cung và cầu. Cầu sụt giảm nhanh và cung trên thị trường lại dư thừa, thậm chí có nguy cơ bùng nổ khi cuộc chiến dầu khí xảy ra.

Dầu khí là một loại hàng hóa chiến lược, hiện vẫn đang chi phối gần như toàn bộ mọi hoạt động kinh tế - xã hội, có ảnh hưởng to lớn đến vấn đề an ninh năng lượng. Nó vừa là nguồn năng lượng chủ yếu, vừa là nguồn nguyên liệu quan trọng của công nghiệp hóa chất, vừa là nguồn tài chính của các quốc gia sở hữu nguồn tài nguyên quý giá này cũng như làm chủ các hoạt động thương mại, dịch vụ liên quan đến dầu khí. Do đó, khủng hoảng giá dầu không chỉ tác động đến các công ty dầu khí các nước mà cả đến các quốc gia, vùng lãnh thổ, thậm chí đến từng khu vực địa lý, từng lĩnh vực hoạt động dầu khí trong từng giai đoạn ngắn hoặc dài rất khác nhau.

Vậy nên khi các hoạt động dầu khí gặp khó khăn, nhiều quốc gia có hoạt động dầu khí cũng bị ảnh hưởng, buộc phải tính toán đến việc cắt giảm chi tiêu ngân sách. 

Chính phủ Mỹ dự kiến sẽ tăng giới hạn cho vay theo gói kích thích kinh tế và cấm các tổ chức cho vay phân biệt đối xử với các doanh nghiệp dầu mỏ. 

Thủ tướng Canada Justin Trudeau cũng công bố kế hoạch giúp ngành năng lượng, bị ảnh hưởng nặng nề bởi cả cuộc khủng hoảng do coronavirus và sự sụp đổ của giá dầu. Theo đó, Ottawa sẽ giải ngân 1,7 tỷ USD Canada (1,1 tỷ euro) để giúp làm sạch các giếng dầu hoặc khí đốt không hoạt động hoặc bị bỏ hoang ở ba tỉnh có dầu phía Tây của đất nước (tỉnh Alberta, Saskatchewan và Colombia -British). 

Trong khi đó, một số quốc gia khác như Nga, Indonesia cũng ban hành lệnh ngưng nhập khẩu xăng để bảo vệ sản xuất trong nước. Còn Trung Quốc đã ban hành những chính sách hỗ trợ các nhà máy lọc dầu gia tăng công suất hoạt động, tiêu thụ trong nước, bổ sung xăng dầu dự trữ quốc gia, tận dụng thời điểm giá dầu giảm sốc…

Ngày 12/4, OPEC+ (một tổ chức tập hợp 14 quốc gia OPEC và 10 quốc gia sản xuất khác, bao gồm Nga, Mexico và Kazakhstan) đạt được thỏa thuận cắt giảm sản lượng. Các nước OPEC+ đồng ý giảm 9,7 triệu thùng/ngày tích lũy từ ngày 1/5 đến 30/6/2020, rồi giảm tiếp 7,7 triệu thùng/ngày từ tháng 7 đến hết năm 2020, cuối cùng giảm thêm 5,7 triệu thùng/ ngày từ tháng 1/2021 đến tháng 5/2022…

Toàn cầu hoá đã mở ra nhiều cơ hội hợp tác giữa các nền kinh tế. Nhưng ở chiều hướng khác, khi kinh tế lâm cảnh suy thoái, khủng hoảng, các chuỗi cung ứng bị phá vỡ thì mức độ tổn thương sẽ càng lớn hơn. Và trong cuộc khủng hoảng đó, ngành công nghiệp dầu khí có thể nói là ngành, lĩnh vực dễ bị tổn thương nhất khi mà hầu hết các sản phẩm chính của lĩnh vực này đều là đầu vào của các ngành, lĩnh vực khác của các nền kinh tế.

Đó là thực tế mà các công ty, tập đoàn dầu khí lớn trên thế giới đang phải đối diện.

Hòa Bình
Bình luận
vtcnews.vn