Chuyện chưa kể về những chuyến xe chở xác kinh dị ở Ninh Bình

Phóng sự - Khám pháThứ Năm, 11/04/2019 06:50:00 +07:00

Những chuyến xe cút kít đi về như con thoi chở người chết đói ở chợ, ở đình, ở xóm ra hàng chục hố chôn tập thể.

 Kỳ 2: Những người suýt bị chôn sống

>>>Kỳ 1: Cần tượng đài cho nạn đói 1945: Nơi thảm cảnh chết đói kinh hoàng nhất lịch sử

Những người suýt bị chôn sốngÔng Dương Văn Toàn năm nay 87 tuổi nhưng vẫn nhớ như in tiếng cót két phát ra từ chiếc xe cút kít chở xác từ chợ Xanh (xã Khánh Thiện, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình) về những hố chôn tập thể ngày nay có tên mả Đói hay gò Ma. Đầu năm 1944, ông mới 11 - 12 tuổi, đang học chữ Nho của thầy đồ Đàm, những hôm đi sớm đều thấy hai bố con thầy thì thào chuyện gì đó rất nghiêm trọng: “Tình hình căng rồi con ạ! Trước là Tàu, sau là Pháp, giờ lại đến Nhật cai trị”.

dsc-4182142003675

Tiêu điều chợ quê (Ảnh: Võ An Ninh) 

Lính Nhật về làng thật, đóng tại hai cửa hiệu to nhất chợ Xanh là nhà ông Cường, ông Tráng, bắt dân phá hoa màu để trồng đay rồi lệnh cho lý trưởng, phó lý phải thu nộp. Tổng Bồng Hải (xã Khánh Thiện ngày nay) khi ấy có 9 làng, ruộng vài ba ngàn mẫu nhưng năm đó mất mùa to. Giữa lúc dân đang đói Nhật vẫn bắt phải đóng thóc lẫm rồi tập trung cả trăm tấn vào đình, cử tuần đinh trông coi cẩn mật.

Năm đói, dân tứ xứ bỗng nhiên kéo về đông như nước lụt, đứng ngồi la liệt hai bên đường, tối ngủ chen chúc trong các dãy quán ở chợ Xanh, sáng ra lại có vài người không bao giờ trở dậy nữa. Tháng 8 - 9/1944 đến lượt dân làng bắt đầu đói. Lợn bị giết đầu tiên để lấy cám cho người ăn. Trâu bò phần không ai đi chăn sinh ốm chết phần bị mổ ăn. Tiếp đó là chó, gà và cuối cùng thì người chết.

nan-doi

 Hai em bé ngồi mút vỏ ốc ở bãi rác trong nạn đói 1945 (Ảnh: Võ An Ninh)

Trước khi chết người ta nhét đủ thứ để làm đầy dạ dày như cỏ, thân chuối, nõn bèo tây, ruột cây đu đủ… Có người vì ăn cây đu đủ phù lên mà chết. Chị Cúc của ông Toàn khi đó đã 18 tuổi, đang giúp việc cho bác ruột mới đẻ thì không có gạo ăn nữa phải trở về. Về sau kiệt sức quá, chị nằm mê sảng trên giường 3 ngày liền, cứ ú ớ kêu: “Bu ơi, con đói quá”.

Mẹ ông vay mượn đâu đó được nửa bát gạo về nấu cháo loãng. Có hơi cháo, chị tỉnh lại rồi chết đúng dịp Tết 1944. Tháng 4/1945 mẹ ông trước lúc ra đi trăn trối: “Các con với bố ở lại gắng mà sống”. Nhưng bố ông cũng chết sau đó mấy tháng. Ngay cả hai bố con thầy đồ Đàm cũng không thoát khỏi nạn đói.

Những nhà giàu có trong làng như hội Vận, hội Ấp, hai Hoạch suốt ngày cổng đóng then cài với tường rào ba lớp, hóp ngoài cùng, tre gai kế sát còn trong cùng là tường gạch. Nhà ai cũng nuôi lắm chó, nhiều ngỗng cùng một đám gia nhân để canh phòng.

Ông Vũ Văn Rạng hồi đó đã 16 tuổi nên còn nhớ rõ cứ 7 ngày chánh hội Năm, tộc Diệu hay thơ Huyến lại tổ chức phát chẩn 1 lần. 1 nồi 30 cơm, nắm nhỏ như quả cam, 3 - 5 gia nhân đội đi kèm theo 20 - 30 tuần đinh cầm tù và, gậy tầy bảo vệ đằng sau. Chỗ cơm ít ỏi đó chẳng thấm vào đâu so với số cả ngàn người đói nên họ tranh nhau, dẫm đạp lên nhau mà chết. Hễ kẻ nào cả gan dám xông vào cướp cơm trên thúng liền bị tuần đinh vung gậy đập cho mất mạng.

nan-doi-2 3

Ông Rạng bên chợ Xanh ngày nay 

Mỗi ngày có 20 - 30 người chết nằm ngổn ngang quanh chợ. Những chiếc xe cút kít, sàn bằng tre, bánh bằng gỗ, bắt đầu được gửi về làng để chở xác. Tuần đinh đào những cái hố to bằng nửa cái sân, sâu 1 - 2m rồi hất xác xuống. Nhiều kẻ đang còn ngắc ngoải cũng vẫn bị túm lên xe vì tuần đinh nghĩ đằng nào chẳng chết.

Bà Đỗ Thị Xuân khi đó đang nằm ở gốc đa giếng Méo thì bị tuần đinh nhặt lên xe cút kít, định đem đi chôn liền kêu toáng: “Chúng mày ơi, tao còn sống!” rồi lồm cồm bò xuống. Ông binh Nhị gánh nước qua thấy vậy cho uống một ngụm thì bà tỉnh lại liền mỗi lần đi qua cho 1 nắm cơm nhỏ như quả trứng. Vậy mà bà sống sót, về sau lấy chồng và mất khi đã già.

Bà Vậy đang nằm ở xó đình với cái bao tải rách quấn thay váy cũng bị quẳng lên xe. Đau quá, bà mắng: “Tiên sư bố chúng mày! Bà mày còn sống!”. Về sau bà lấy một ông thợ may trong làng và sống rất thọ.

nan-doi-3 4

Kéo xác chết đói đi chôn (Ảnh: Võ An Ninh) 

Có nhiều người đã bị chôn sống như thế chỉ vì sức yếu không kêu nổi. Những chuyến xe cút kít đi về như con thoi chở người chết đói ở chợ, ở đình, ở xóm ra hàng chục hố chôn tập thể rải từ cầu Gỗ thôn Phú Hậu đến Gồ thôn Phong An, ước tính cỡ 500 - 600 xác.

Bố mẹ ông Rạng khi đó thuộc loại có điều kiện nhưng cũng phải bán căn nhà lim 5 gian cho ông Thơ Tâm với giá 25 đồng vì đói. 1 thùng thóc 10kg khi đó có giá 6 đồng, tính ra ngôi nhà chỉ được hơn 40kg thóc, chưa đủ cho gia đình hơn 10 người cầm cự 1 tháng. Ông Rạng có 9 anh em thì chết đói mất 7.

nan-doi-4 5

 Ông Rạng bên gò mả Đói

Đầu tiên là anh, sau đó là em trai 4 tuổi chết vì ăn thóc lép tán thành thính sinh táo bón, kế đó là em gái mới 3 tháng tuổi, mẹ không có sữa mà xin bú trực không ai cho. May được cô ruột đón về chăn trâu nên ông mới sống sót.  

Ký ức của một con ở

Bà Đỗ Thị Chính ở xóm 1 năm đó 13 tuổi, hết đi ở cho ông hai Hoạch lại sang bà cả Phụng. Ngày bà chăn 2 con trâu, 2 con lợn sề, tối ngủ ngay bên xó bếp, đến bữa ăn chung nồi cháo cám với chó.

Được cái cháo cám cho chó là cám gạo tám nên khá ngon chứ không phải là cám gạo thường, lẫn nhiều trấu cho lợn. Lắm buổi đói quá, bà Chính tranh ăn hết phần của chó còn cám lợn thì chẳng dám ăn bởi không có vung đậy nên lúc nhúc ruồi nhặng.

Về sau Còi bị cho làm con nuôi, giờ vẫn còn sống nhưng không mấy khi trở về quê cũ.Thế mà một bà khi đến xin làm thuê nhưng không được nhận đã van nài xin một bát cám lợn.

Một hôm, người hàng xóm chạy sang bảo bà Chính: “Thím Gia chết rồi mà thằng Còi vẫn còn rúc vào bú. Thím bế nó ra để cho tôi còn bó chiếu đem chôn”.

Bà Chính can: “Toàn ruồi nhặng ăn vào đau bụng chết” mà người kia vẫn lăn xả vào húp. Về sau bà này bị chết đói dọc đường vào Thanh Hóa.

Mẹ bà Chính khi đó vẫn thỉnh thoảng làm cỏ vườn thuê cho địa chủ, không trả tiền mà mỗi bữa được cho 2 bát cơm. Mẹ bà lén trút 1 bát vào khăn rồi lận luôn xuống bụng để phần cho lũ con ở nhà.

Cơm nóng khiến bỏng cả da nhưng mẹ bà không dám ngọ nguậy bởi sợ chủ nhà biết, lo không đủ sức lao động sẽ đuổi thẳng cổ. Nhìn bụng mẹ thâm hết vì giấu cơm nóng, bà Chính thỉnh thoảng đưa vụng cho 1 bát cháo cám. Được 3 - 4 lần thì chủ biết, cấm ngặt.

Bát cơm giấu trong khăn không thể chống lại cái đói cho cả nhà nên bố và 4 anh em của bà lần lượt chết. Chồng bà Chính sau này là ông Phạm Văn Cơ khi đó có bố mẹ và 6 chị em cũng chết đói.

nan-doi-5 6

Bà Chính bảo 3-4 lần giấu bát cháo cám đưa cho mẹ chống đói thì bị chủ nhà phát hiện, cấm ngặt! 

Nhờ làm mướn ở huyện khác nên ông mới thoát nhưng lúc về nhà chỉ thấy mỗi xác của bố. Nạn đói hằn sâu trong ký ức ông bà đến nỗi ăn bữa trước lại nghĩ bữa sau, không bao giờ dám bỏ đi dù chỉ là một hạt cơm. 

Nhà nghèo trong làng khi đó hầu như đều chết vài ba người, chỉ duy nhất gia đình ông Bùi Nam Thư thoát nạn.

Ông Thư nay đã 89 tuổi mà khi kể lại chuyện 75 năm trước vẫn còn trào nước mắt. Bố ông vốn thức thời, thấy nguy cơ đói đã dắt díu 7 người trong nhà lên nhờ thuyền buôn muối ngược sông Đáy tới tỉnh Yên Bái.

Từ đó, bố đi Hải Phòng bán kem còn mẹ đi làm vú em cho nhà giàu.

nan-doi-6 7

Ông Thư khóc khi nhớ về nạn đói 

Miền núi hồi ấy sẵn sắn nên ít đói. Ông Thư cùng lũ em phần xin, phần ăn trộm sắn trên nương để cầm cự. Một lần đi chăn trâu thuê ông cắt cỏ nhầm vào lá mái - một loại lá rất sắc mà ăn vào gia súc có thể bị đứt lưỡi. Ngay lập tức ông bị trói nghiến lại, đánh cho gần chết nên phẫn quá bỏ về quê.

Trước khi đi bà mẹ đem 6 đồng khâu vào dưới mảnh vá của áo ông như một chiếc túi bí mật.

Rúc gầm ghế tàu hỏa để trốn vé, tới Nam Định ông đi bộ về Ninh Bình. Khi qua đò sông Đáy, đến giữa dòng thì bị chủ đò dọa: “Mày không đưa tiền đây thì tao sẽ đập chết”.

Nhìn dòng sông khi đó dập dềnh toàn xác người đói, lắm cái chỉ có ba sợi lạt buộc bởi cánh tuần đinh nhiều làng ngại đào hố chôn cứ quẳng bừa xuống, ông rủn cả chân tay.

Còn tiếp...

Video: Những năm Dậu khó quên nhất của Việt Nam và thế giới

Nguồn: Dương Đình Tường (Nông nghiệp Việt Nam)
Bình luận
vtcnews.vn