Chiến dịch ‘hất cẳng’ Trung Quốc khỏi chuỗi cung ứng toàn cầu của Mỹ

Tư liệuThứ Bảy, 10/10/2020 06:45:00 +07:00
(VTC News) -

Mỹ và nhiều quốc gia đang nỗ lực tìm cách giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc đối với các loại hàng hóa chiến lược, trong đó có chuỗi cung ứng công nghệ.

Đối đầu với Trung Quốc của Mỹ dưới thời Tổng thống Donald Trump diễn ra trên mọi mặt trận, trong đó Washington không ngừng gây sức ép, dựng chiến dịch loại bỏ Trung Quốc khỏi chuỗi cung ứng công nghệ toàn cầu.

Trong bối cảnh thương chiến Mỹ - Trung tiếp diễn, lường trước những khó khăn, hậu quả có thể phải gánh chịu nếu tiếp tục hoạt động sản xuất tại thị trường Trung Quốc, nhiều tập đoàn công nghệ lớn như Apple, Google đã lên kế hoạch, dịch chuyển sản xuất từ Trung Quốc sang các thị trường mới tại nhiều nước Đông Nam Á, Ấn Độ.

Siết chặt quy định

Trong nhiệm kỳ của Tổng thống Donald Trump, Mỹ đã xây dựng được chiến lược toàn diện trong cuộc cạnh tranh công nghệ với Trung Quốc. Từ việc cắt đứt nguồn cung đối với các công ty công nghệ khổng lồ của Trung Quốc đến việc ngăn cản các thỏa thuận mua bán dây cáp viễn thông ngầm dưới biển.

Chiến dịch ‘hất cẳng’ Trung Quốc khỏi chuỗi cung ứng toàn cầu của Mỹ - 1

Mỹ đẩy mạnh chiến dịch gây sức ép, loại bỏ Trung Quốc khỏi chuỗi cung ứng công nghệ toàn cầu. (Ảnh: Nikkei Asian Review)

Mặc dù các biện pháp của chính quyền Trump mang tính ứng biến, giải quyết vấn đề tình thế trong quan hệ với Trung Quốc, song các chuyên gia cho rằng các biện pháp này sẽ tạo nên những nguyên tắc cơ bản trong chính sách công nghệ của Washington đối với Bắc Kinh trong tương lai gần.

Theo đó, trước mắt Mỹ sẽ chú trọng đến việc hạn chế dòng chảy công nghệ vào Trung Quốc, tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu và đầu tư vào các công nghệ mới nổi trong thị trường nội địa Mỹ. Ngay cả chính quyền mới cũng khó có thể tách rời những nguyên tắc cơ bản này.

Trong bối cảnh căng thẳng thương mại leo thang, hai năm qua, chính quyền Trump đã đẩy mạnh việc rà soát, liệt các công ty Trung Quốc vào danh sách đen. Danh sách này của Mỹ bao gồm các cá nhân, công ty và tổ chức bị nghi ngờ có khả năng gây hại tới an ninh quốc gia Mỹ.

Đến nay, danh sách đó nối dài lên khoảng 70 công ty. Những công ty bị liệt trong "danh sách đen" nếu muốn mua công nghệ và linh kiện của Mỹ phải có sự chấp thuận của chính quyền Mỹ nhưng điều này không dễ dàng.

Trong vòng một năm, Mỹ đã sửa đổi các quy tắc kiểm soát xuất khẩu ba lần nhằm vào gã khổng lồ công nghệ Huawei của Trung Quốc. Lệnh cấm khẳng định tập đoàn công nghệ Huawei "liên quan đến các hoạt động đi ngược lại lợi ích an ninh quốc gia hoặc các chính sách đối ngoại của Mỹ". Những điều chỉnh này của Washington không chỉ ảnh hưởng đến cả các nhà cung cấp của công ty Trung Quốc tại Mỹ mà cả với các công ty của nước này.

Theo quy định mới đây của chính phủ Mỹ, bắt đầu từ 15/9, tất cả nhà cung cấp của Huawei trên khắp thế giới sẽ phải dừng bán hàng cho Huawei nếu sản phẩm của họ chứa công nghệ Mỹ. Nếu muốn tiếp tục làm ăn với Huawei, các nhà cung cấp này cần phải có giấy phép từ Bộ Thương mại Mỹ theo như lệnh biện pháp bổ sung được công bố từ ngày 17/8.

Điều đáng nói là những thành phần mà các đối tác trên khắp thế giới cung cấp cho Huwei lại đóng vai trò cực kỳ quan trọng, từ chất bán dẫn đến màn hình, ống kính máy ảnh, thậm chí cả bảng mạch.

Nhà Trắng cũng đã phát động một chiến dịch toàn cầu chống lại việc lắp đặt hệ thống 5G của Huawei ở các quốc gia đồng minh. Theo tiếng gọi của Mỹ, Anh đã chính thức công bố mọi thiết bị của Huawei cần phải được rút khỏi hệ thống mạng 5G của Anh trước năm 2027.

Trước tình cảnh này, Trung Quốc cũng đã tìm chiến lược ứng phó. Theo đó, Bắc Kinh đang chạy đua để phát triển các sản phẩm bán dẫn và các công nghệ cốt lõi khác để giảm sự tổn thương do lệ thuộc vào chuỗi cung ứng của Mỹ.

Để thực hiện mục tiêu này, lãnh đạo Trung Quốc huy động các công ty công nghệ, thắt chặt quan hệ với các nước tham gia sáng kiến “Vành đai, Con đường” và duy trì chiến dịch gián điệp mạng - công nghiệp. Điều này khiến cho đối đầu thương mại giữa hai cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới đứng trước ngưỡng cửa của "chiến tranh lạnh công nghệ".

Tháo chạy khỏi Trung Quốc

Làn sóng tháo chạy của các công ty công nghệ khỏi thị trường Trung Quốc báo hiệu sự kết thúc của một kỷ nguyên gắn liền với công thức: Thiết kế sản phẩm công nghệ ở phương Tây và sản xuất tại trung tâm công nghiệp của Trung Quốc. Sự kết hợp này vốn mang lại hiệu quả tối ưu giữa chi phí, chất lượng, nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng.

Giờ đây, chuỗi cung ứng công nghệ toàn cầu đứng trước nhiều thách thức khi phải đối mặt với sự trỗi dậy mạnh mẽ của chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch.

Ngành công nghiệp công nghệ đã bắt đầu cuộc di cư chưa từng có. Khoảng 2.000 công ty Đài Loan, Nhật Bản và Hàn Quốc, trong đó có nhiều nhà cung cấp công nghệ chính có các kế hoạch đa dạng hóa các hoạt động sản xuất tại các nước Đông Nam Á và Ấn Độ, thay thế cho thị trường Trung Quốc. 

Các công ty công nghệ, đặc biệt là các nhà cung cấp thương hiệu Mỹ như Apple, đang xem xét chuyển từ 15% đến 30% tổng sản lượng ra khỏi Trung Quốc, đồng thời yêu cầu các nhà cung cấp sản phẩm công nghệ châu Á hỗ trợ các kế hoạch đa dạng hóa hoạt động sản xuất trong vài năm tới.

Chiến dịch ‘hất cẳng’ Trung Quốc khỏi chuỗi cung ứng toàn cầu của Mỹ - 2

Nhà máy sản xuất điện thoại thông minh của Samsung Telecom Technology ở thành phố Thiên Tân, Trung Quốc hiện đã đóng cửa. (Ảnh: AP)

Nhật Bản đã khởi động một chương trình trợ cấp 220 tỷ yên (2,08 tỷ USD) để khuyến khích các công ty đưa ngành sản xuất về nước và phân bổ thêm 23,5 tỷ yên để tài trợ cho việc chuyển sản xuất sang khu vực Đông Nam Á.

Đến tháng 7, gần 90 công ty Nhật Bản đã được chấp thuận trợ cấp, trong khi hơn 1.600 công ty đã nộp đơn xin trợ cấp. Tương tự, từ cuối năm 2018, Đài Loan đã thực hiện chiến dịch "chuyển sản xuất trở lại Đài Loan" với việc giảm thuế và lãi suất cho vay đặc biệt.

Trong khi đó, Apple bắt đầu sản xuất hàng loạt AirPods không dây phổ biến tại Việt Nam từ đầu năm nay và có kế hoạch mang nhiều sản phẩm hơn nữa đến nước ta. Chỉ mới năm ngoái, tất cả các sản phẩm như vậy đều sản xuất ở Trung Quốc. Gã khổng lồ công nghệ Apple cũng yêu cầu các nhà lắp ráp iPhone chính là Foxconn và Wistron mở rộng năng lực sản xuất ở Ấn Độ, đồng thời hối thúc nhà cung cấp chủ chốt khác là Pegatron nhanh chóng xây dựng cơ sở ở đó trong năm nay.

Còn Samsung Electronics, tập đoàn này đóng cửa các cơ sở lắp ráp điện thoại thông minh cuối cùng ở Trung Quốc vào năm 2019 để chuyển toàn bộ trọng tâm sang Việt Nam và Ấn Độ. Việc sản xuất máy chủ cho các trung tâm dữ liệu của Google, Amazon và Facebook đã được chuyển sang Đài Loan - hai năm trước. Trước đây, tất cả các máy chủ như vậy đều được sản xuất tại Trung Quốc.

"Suy nghĩ của khách hàng đã thay đổi. Căng thẳng gia tăng giữa Washington và Bắc Kinh buộc họ phải suy nghĩ về chiến lược sản xuất của mình, giống như mua bảo hiểm cho chính họ. Trong 2 - 3 năm tới, bạn sẽ không chỉ thấy những nhà lắp ráp điện tử lớn mà ngày càng có nhiều nhà cung cấp linh kiện chuyển công suất ra ngoài Trung Quốc để hỗ trợ chuỗi cung ứng mới", một giám đốc điều hành, cung ứng sản phẩm iPhone cho Nikkei hay.

Sự bùng phát bất ngờ của COVID-19 càng thúc đẩy các nhà cung cấp công nghệ đa dạng hóa rủi ro, tránh tình trạng dồn tất cả nguồn lực vào một khu vực duy nhất. Trong khi đó, lo ngại về gián điệp nước ngoài gia tăng khiến nhiều quốc gia có quan điểm cứng rắn, sẵn sàng “tẩy chay” các công ty công nghệ Trung Quốc.

Quản lý công ty Alpha Networks có trụ sở tại Đài Loan, nhà cung cấp thiết bị mạng, nói với Nikkei: "Kể từ năm ngoái, Alpha Networks bắt đầu giảm bớt sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc về mặt sản xuất. Các khách hàng đến từ Mỹ cho rằng, sẽ không an toàn nếu những sản phẩm này được sản xuất tại Trung Quốc”.

Đối với các công ty như Acter Group, một công ty xây dựng cơ sở vật chất cho Google và các nhà cung cấp chính của Apple như Pegatron, Wistron và nhiều công ty khác, việc mở rộng chuỗi cung ứng công nghệ ra các nước Đông Nam Á đã trở thành chất xúc tác tăng trưởng quan trọng. 

Lai Ming-kun, Tổng giám đốc Acter Group, cho biết: “Chúng tôi nhận thấy các dự án trong tương lai từ các quốc gia Đông Nam Á như Việt Nam, Thái Lan và Indonesia đang tăng lên rất nhiều”.

“Năm ngoái, chúng tôi chỉ mới nghe thông tin về việc một số công ty đang cố gắng đa dạng hóa sản xuất khỏi ​​Trung Quốc. Nhưng năm nay, tất cả những tin tức này đã trở thành hiện thực... Những nhà cung cấp công nghệ này đã thực sự bắt đầu xây dựng hoặc mở rộng các cơ sở mới. Chúng tôi cũng đã bố trí, sắp xếp một số nhân viên Trung Quốc để giúp đỡ các doanh nghiệp đang phát triển ở đó", Angie Tsao, Giám đốc Acter Group nói với Nikkei.

Cuộc dịch chuyển tốn kém

Tuy nhiên, chi phí để các công ty công nghệ dịch chuyển khỏi Trung Quốc là rất lớn. Trên thực tế, Trung Quốc vẫn mang đến sự kết hợp tuyệt vời giữa cơ sở hạ tầng được tổ chức tốt, nguồn lao động có tay nghề cao mà không quốc gia nào có thể sánh kịp.

Hơn nữa, thị tường này có khả năng huy động hàng trăm nghìn công nhân và giao linh kiện trong giờ theo yêu cầu. Nghiên cứu của Bank of America Securities cho thấy, thời gian để các sản phẩm lên kệ tại các cửa hàng ở Mỹ có thể mất tới 40 ngày nếu sản xuất từ Thái Lan, gần gấp đôi thời gian so với Trung Quốc.

Maurice Lee, Giám đốc điều hành tại Unimicron Technologies, một nhà sản xuất bảng mạch in chủ chốt và là Chủ tịch Hiệp hội vi mạch in Đài Loan cho biết, việc chuyển sản xuất ra khỏi Trung Quốc vẫn là thách thức đối với công ty của ông và các công ty khác.

"Có ít nhất 30 đến 40 quy trình sản xuất mạch điện tử. Ở Trung Quốc, chúng tôi có một hệ sinh thái hoàn chỉnh và dễ tiếp cận với tất cả các nhà cung cấp... Khi chuyển đến nơi khác có nghĩa là tất cả các quy trình, công tác hậu cần sẽ phải được thiết kế lại. Điều đó khiến chúng tôi phải đào tạo lại toàn bộ công nhân, cũng như việc tăng chi phí”, Maurice Lee nói.

"Sản xuất công nghệ sẽ phải đối mặt với sự thay đổi cơ bản nếu chuyển ra khỏi Trung Quốc", ông Tung Tzu-hsien, Chủ tịch của Pegatron nói. Công ty của ông, trước đây chỉ tập trung sản xuất ở Trung Quốc và Đài Loan, đã xây dựng các cơ sở sản xuất mới ở Indonesia và Việt Nam trong hai năm qua và chuẩn bị xây dựng một cơ sở mới ở Ấn Độ. 

"Trước đây, chỉ mất hai giờ để huy động việc vận chuyển linh kiện từ các tỉnh khác của Trung Quốc. Nhưng trong tương lai, sẽ mất ít nhất một đến hai tuần chờ đợi khi chuỗi cung ứng trở nên phi tập trung bên ngoài Trung Quốc. Đây là một thực tế mới mà tất cả chúng ta phải đối mặt và thích nghi", ông Tung Tzu-hsien cho biết thêm.

Các kế hoạch dịch chuyển, tháo chạy khỏi Trung Quốc của các công ty công nghệ đã có từ nhiều nằm nay. Tuy nhiên, điều này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn khi các công ty “thấm đòn” từ thương chiến Mỹ - Trung cũng như ảnh hưởng từ đại dịch COVID-19 đem lại. Nhiều công ty đã tìm cách chuyển một số hoạt động sản xuất sang Đông Nam Á trong bối cảnh chi phí gia tăng và tình trạng thiếu lao động ở Trung Quốc. 

Nhiều năm qua, vào mùa cao điểm, các nhà sản xuất ngày càng khó tuyển đủ công nhân trong dây chuyền sản xuất. Thiếu công nhân, giá thuê đất và tiền lương công nhân tăng cao đã trở thành vấn đề nan giải chung của các nhà cung cấp sản phẩm công nghệ. Điều này đã thúc đẩy các công ty tìm kiếm các giải pháp thay thế bên ngoài Trung Quốc.

Chiến dịch ‘hất cẳng’ Trung Quốc khỏi chuỗi cung ứng toàn cầu của Mỹ - 3

Hình ảnh về "thành phố iPhone" của Trung Quốc tại khu thương mại trung tâm của thành phố Trịnh Châu, tỉnh Hà Nam sẽ khó tái diễn trong tương lai khi làn sóng tháo chạy của các công ty công nghệ đang diễn ra. (Ảnh: AP)

Sean Kao, nhà phân tích của IDC, cho biết nhiều công ty đã phải chịu chi phí lao động tăng cao ở Trung Quốc trong vài năm và bắt đầu xem xét các kế hoạch đa dạng hóa. Dù vậy, các kế hoạch này chỉ được đẩy mạnh khi thương chiến Mỹ - Trung bắt đầu.

“Khó có quốc gia nào có thể thay thế hoàn toàn Trung Quốc. Nhưng căng thẳng leo thang giữa Washington và Bắc Kinh, sau đó là đại dịch COVID-19, đã hối thúc các nhà cung cấp và khách hàng chuyển ít nhất một số hoạt động sản xuất sang các nước khác. Đây là bước đi mới, có lẽ tất yếu”, Sean Kao nhấn mạnh.

Tương lai ngành công nghệ sau bầu cử Mỹ?

Nhằm hạn chế những rủi ro từ căng thẳng thương mại Mỹ - Trung, các công ty công nghệ bắt đầu làn sóng tháo chạy khỏi Trung Quốc, hình thành một chuỗi cung ứng mới ở Đông Nam Á và Ấn Độ.

Các nhà cung cấp công nghệ lớn như nhà sản xuất Apple Watch Compal Electronics đã có mặt tại Việt Nam; AirPods và nhà sản xuất điện thoại Xiaomi Inventec có cơ sở ở Malaysia; trong khi nhà lắp ráp máy tính xách tay Wistron của iPhone và Acer có nhà máy ở Philippines. Tuy nhiên, những nhà máy này thường có quy mô nhỏ, nằm rải rác khắp Đông Nam Á và không hoạt động hết công suất.

Xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng của các công ty công nghệ Mỹ hiện nay cũng sẽ chịu tác động, ảnh hưởng không nhỏ từ kết quả bầu cử Mỹ tới đây. Bởi lẽ với một chính quyền mới được hình thành sau bầu cử, quyết sách về thương mại có thể sẽ được điều chỉnh.

Do đó, cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ đang nhận được sự quan tâm, chú ý của các ngành công nghiệp có liên quan đến chuỗi cung ứng công nghệ toàn cầu. Trong số này, không nhiều người tin rằng sự cạnh tranh và căng thẳng địa chính trị giữa Washington và Bắc Kinh sẽ “xuống thang”, bất kể ai trở thành Tổng thống Mỹ tiếp theo.

Martijn Rasser, thành viên cấp cao của chương trình công nghệ và an ninh quốc gia tại Trung tâm An ninh mới của Mỹ, cho biết Washington và Bắc Kinh không có khả năng quay trở lại quan hệ tốt đẹp như từng có.

"Nếu Joe Biden trở thành Tổng thống Mỹ tới đây, tôi mong đợi một sự thay đổi trong quan điểm và chính sách đối với Trung Quốc. Song, hiện có sự đồng thuận mạnh mẽ của lưỡng đảng về những thách thức, đe dọa đang trỗi dậy của Bắc Kinh. Cùng với đó là sự đồng thanh tương ứng của các đồng minh quốc tế, yêu cầu Bắc Kinh tiết chế lập trường trong một loạt các vấn đề địa chính trị", Martijn Rasser nhận định.

Đồng quan điểm, Willy Shih, giáo sư tại Trường Kinh doanh Harvard, cho biết: "Cuộc bầu cử Mỹ có thể thay đổi bên lãnh đạo... và điều đó có thể phần nào cải thiện quan hệ. Tuy nhiên, sự ủng hộ của lưỡng đảng tại Mỹ đối với một chính sách cứng rắn hơn đối với Trung Quốc là tín hiệu không mấy tích cực cho điều này. Rất nhiều chuyển động của chuỗi cung ứng trong các sản phẩm công nghệ đang được thiết lập và điều này khó thay đổi trong thời gian tới".

Kông Anh
Bình luận
vtcnews.vn