Thi sĩ Hữu Loan và mối tình bất hủ

Văn hóa - Giải tríThứ Sáu, 19/03/2010 08:02:00 +07:00

(VTC News) - ... Xin tạ lỗi cùng ông, tôi viết lại những kỷ niệm về ông như một lời tiễn biệt. Ở nơi chín suối mong ông được bình an!

(VTC News) - Gần đây nghe tin ông ốm nặng, bệnh thấp khớp tái phát, đau nhiều khiến ông không đi lại được. Không biết đã bao lần tôi định bụng thu xếp công việc để về quê, ghé thăm ông, nhưng rồi cứ lần lữa mãi. Hôm nay nghe tin ông mất (ông mất lúc 19h, ngày 18/3/2010), tôi bàng hoàng, vừa đau buồn, vừa trách cứ bản thân.

Xin tạ lỗi cùng ông, tôi viết lại những kỷ niệm về ông như một lời tiễn biệt. Ở nơi chín suối mong ông được bình an!

Một số phận long đong

Lần cuối cùng gặp ông cũng đã tới 6 năm rồi. Ấy là khi chúng tôi cùng ông Lê Văn Chính, Giám đốc Công ty điện tử Vitek VTB (từ thành phố Hồ Chí Minh ra) vào nhà ông (dưới chân núi Văn Lỗi, làng Văn Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, cách Thành phố Thanh Hóa chừng 50km) để xin nhượng bản quyền bài thơ “Màu tím hoa sim”.

Trời đứng bóng chúng tôi mới tới được nhà ông, đứng ngoài cánh cổng bằng tre gài sơ sài, tôi réo thật to: “Cụ Loan ơi!”. Lát sau, ông lững thững đi ra, áo may ô ba lỗ màu cháo lòng, quần đùi lửng, tay cầm chiếc quạt mo, vỗ phành phạch mấy cái vào đùi hỏi vọng ra: “Đứa nào đấy?”. Ông nheo mắt nhìn vào mặt tôi, rồi chợt nhận ra, có vẻ rất vui, cười sảng khoái. Ông bảo: “Trừ mày ra bố bảo đứa nào dám réo tên tao oang oang như rứa”.

Khi biết mục đích chuyến thăm ông lần này là Công ty điện tử Vitek VTB muốn mua độc quyền bài thơ “Màu tím hoa sim” của ông với cái giá 100 triệu đồng, ông tỏ ra khá sửng sốt.

Nhà thơ Hữu Loan. 
Ông mời chúng tôi ngồi bên cái chõng, dưới gốc cây khế ngoài vườn, rồi lặng lẽ rót rượu ra mời khách. Mái tóc ông bạc trắng, để dài xõa xuống ngang vai, trước trán găm một cái bờm bằng nhựa màu huyết dụ. Bước vào cái tuổi cửu tuần rồi mà mắt ông vẫn còn tinh anh, giọng ông còn sang sảng, chỉ có điều, trông ông hơi hốc hác, những gân cổ và xương quai xanh nổi gồ cả lên, như đắp bằng thạch cao, như vạc bằng rìu.

Nhấp một ngụm rượu ông nhìn vào ông Giám đốc Công ty điện tử Vitek VTB như thăm dò: “Thế các ông lấy bao nhiêu phần trăm?”. “Của cụ hết cụ ạ” - sau khi nghe ông Chính nói vậy ông cười khà khà, quạt lấy quạt để.

Theo lý lịch công tác thì nhà thơ Hữu Loan sinh năm 1916, nhưng ông nói với tôi là ông sinh năm 1914 trong một gia đình tá điền nghèo, hồi nhỏ ông không có cơ may được cắp sách đến trường như bao đứa trẻ cùng trang lứa, chỉ học bữa được bữa không tại nhà do người cha dạy dỗ. Cha ông tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung, ông cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học.

Có lần Hữu Loan kể rằng, vào khoảng năm 1938, ông vác lều chõng ra Hà Nội đua tài, không phải là để thăng quan phát tài mà là để chứng minh cho đám con cháu nhà giàu thấy rằng con tá điền, không được đến trường, vẫn đỗ cao như chơi.

Đám sĩ tử kinh thành từ chỗ nhìn ông bằng “nửa con mắt” khi bước vào trường thi, đến “tròn con mắt” khi thấy tên ông trên bảng vàng. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi sáu bảy chục năm sau người ta vẫn còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, như Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn, Đỗ Thiện và Hữu Loan.

Có thể nói cuộc đời ông là một bi kịch lớn. Hữu Loan tham gia Mặt trận bình dân năm 1936, rồi tham gia Việt Minh ở thị xã Thanh Hóa (nay là TP Thanh Hóa)... Trước năm 1945, ông từng là cộng tác viên trên các tập san văn học xuất bản tại Hà Nội. Sau Cách mạng tháng Tám, ông được cử làm Ủy viên Văn hóa trong Ủy ban Hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa. Theo Hữu Loan kể lại thì một lần tại cuộc họp của Ủy ban hành chính ông đã nhảy lên bàn đấm thẳng vào mặt một tay "giữ “túi cơm, manh áo” của kháng chiến, đã ăn bớt ăn xén của anh em lại còn phát biểu láo”. Hữu Loan bỏ về quê đi cày. Mến mộ tài danh cái “gã giang hồ mà lịch duyệt” ấy nên lưỡng quốc Tướng quân Nguyễn Sơn đã mời ông vào phục vụ trong Đại đoàn 304.

Sau năm 1954, ông về làm biên tập viên tại Báo Văn Nghệ. Nhưng rồi cũng chỉ được một thời gian ngắn. Chán ngán với cảnh “gà nhà đá nhau”, rồi “gà nhà bị người ta đá”, ông đứng giữa sân trụ sở làm việc bẻ đôi chiếc bút, vứt vào sọt rác: “Ông đếch làm việc với chúng mày nữa” và bỏ về quê đi cày, đi thồ đá bán lấy tiền nuôi đàn con hơn chục đứa. Và ông ở quê cho tới ngày ông trút hơi thở cuối cùng.

Người con gái trong “Màu tím hoa sim”

Trong sự nghiệp sáng tác của mình Hữu Loan viết không nhiều. Trong số khoảng trăm bài thơ của ông mà tôi biết, thực tình mà nói, tôi vẫn coi “Đèo cả” là một tuyệt tác của ông. Tuy nhiên bài thơ mà nhiều người biết đến nhất và ông nổi tiếng vì nó lại là bài “Màu tím hoa sim”. Và gần như cuộc đời thăng trầm của ông cũng gắn với bài thơ này.

Theo nhà thơ Hữu Loan thì đây là bài thơ ông khóc người vợ xấu số của mình là Lê Đỗ Thị Ninh. Xung quanh câu chuyện này đã được kể và viết rất nhiều và không ít người đã thêu dệt cho nó ly kỳ.

Trong nhiều năm quen biết và qua nhiều lần trò chuyện cùng ông cả trong lúc “trà dư tửu hậu”, ông đã kể cho tôi nghe về người vợ xấu số của ông. Tôi cũng đã về tận Nông Cống (Thanh Hóa) nơi Lê Đỗ Thị Ninh bị dòng nước cuốn đi và “sinh ra” cho người đời một khúc bi ca bất hủ. Tôi cũng đã lần tìm tới những người thân của bà Ninh để được nghe về cuộc đời ngắn ngủi của bà.

Nhà thơ Hữu Loan kể: “Vào khoảng năm 1932-1933, tôi được gia đình cho lên thành phố Thanh Hoá để theo học trung học.

Ở Thanh Hoá thời bấy giờ có hai hiệu sách rất nổi tiếng. Một hiệu có tên là Hà Thành. Đây là hiệu sách của ông Trương Khâm, khi ấy là huynh trưởng hướng đạo sinh Hà Thành. Còn hiệu sách thứ hai là hiệu Hoà Yên của bà Tham Kỳ (tức bà Đái Thị Ngọc Chất) ở 48 phố Lớn (Trần Phú hiện nay). Bà Chất là vợ ông Lê Đỗ Kỳ, kỹ sư canh nông, có lúc làm Thanh tra canh nông Đông Dương; sau này từng làm Chủ tịch huyện Đông Sơn, rồi huyện Nông Cống, Thanh Hoá, là đại biểu Quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt Nam DCCH. Sau này ông Kỳ đưa cả gia đình ra Hà Nội sinh sống. Lũ học sinh chúng tôi thường ra hiệu sách của bà Tham Kỳ để mượn đọc”.

Bà Đái Thị Ngọc Chất là người rất yêu văn chương, thấy Hữu Loan nhà nghèo nhưng lại ham học nên rất quý. Bà thường “đàm đạo” thơ văn với Hữu Loan. Phần vì trọng tài, phần vì nể phục tư chất thông minh và khảng khái của chàng trai nên bà Chất bàn với chồng mời Hữu Loan về làm gia sư cho 3 người con trai của mình.

Trong bài thơ “Màu tím hoa sim”, Hữu Loan viết rất thật: “Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội...”. Người con trai cả của ông bà Tham Kỳ là Lê Hữu Khôi, tham gia kháng chiến chống Pháp, hy sinh (năm 1954) chỉ vài giờ trước khi đơn vị của ông bắt sống tướng De Castri, hoàn thành thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Người con thứ hai là Lê Đỗ Nguyên, chính là Trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.

Người con trai thứ ba mà Hữu Loan làm gia sư là Lê Đỗ An, sau này lấy tên là Nguyễn Tiên Phong, nguyên Bí thư Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (nay đã mất). Lê Đỗ Thị Ninh là cô con gái kế tiếp của vợ chồng ông Tham Kỳ.

“Các em nàng có em chưa biết nói...”. “Người em chưa biết nói mà nhà thơ Hữu Loan nói tới trong bài thơ chính là em Lê Thị Như Ý, sau này là giáo viên, hiện đã nghỉ hưu tại Hà Nội” - Trung tướng Phạm Hồng Cư cho chúng tôi biết.

Khi Hữu Loan đến làm gia sư trong nhà ông bà Tham Kỳ thì ông đã 18 tuổi (Hữu Loan sinh năm 1916) còn Lê Đỗ Thị Ninh còn là một cô bé vài ba tuổi. Ông đã viết rất thực: “Yêu nàng như tình yêu em gái”. Ông coi Lê Đỗ Thị Ninh như em gái thật.

“Nhưng hình như ngay từ lúc tôi bước chân tới nhà bà Tham Kỳ thì bà cụ đã có ý gán Ninh cho tôi. Bà rất quý tôi, dành cho tôi nhiều ưu ái. Tôi ở trong nhà một thời gian thì dọn đi vì bà không chịu lấy tiền nhà, nhưng khi tôi ngã ốm thì bà lại đưa về nhà nuôi. Lê Đỗ Thị Ninh khi ấy còn nhỏ nhưng đã rất có cá tính. Nàng không thích lụa là mà chỉ thích mặc áo vải. Như duyên tiền định, mặc dù trong nhà không ít người làm, nhưng nàng vẫn thường tự rút quần áo của tôi phơi ngoài sân” – Hữu Loan cho biết trong lần trò chuyện với chúng tôi.

Khi Lê Đỗ Thị Ninh lớn lên đi học thì Hữu Loan đã trở thành thầy dạy Pháp văn tại một trường tư thục ở Thành phố Thanh Hoá. Hàng ngày bà Tham Kỳ cho xe kéo tay đưa cô Ninh đi học, sau đó đưa Hữu Loan đến trường. Lê Đỗ Thị Ninh học đến lớp 5 thì Nhật ném bom nên đành phải thôi học.

Trung Tướng Cư nhớ lại: “Em Ninh là một cô bé hiền thục và chăm làm lắm. Bố tôi chuyển ra Hà Nội làm ở Bộ Canh nông, ba anh em chúng tôi ra Hà Nội học rồi tham gia cách mạng. Mẹ và em Ninh phải về ấp Thị Long (Nông Cống, Thanh Hoá), nơi gia đình chúng tôi có mấy mẫu ruộng, đồng thời cũng là để nuôi bà ngoại tôi bị ốm nặng nằm liệt (tai biến mạch máu não). Mẹ tôi phải túc trực bên bà nên mọi chuyện như làm ruộng, nuôi gà, chăn vịt... đều dồn hết lên vai em Ninh”.

Tuy nhiên chuyện chỉ mới dừng ở đấy, bởi vì đối với Hữu Loan khoảng cách tuổi tác giữa hai người quá lớn (16 tuổi) và ông vẫn coi Ninh như em gái.

Mối tình bất hủ

Sau cách mạng Tháng Tám, Hữu Loan trở thành Uỷ viên văn hoá trong Uỷ ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách 4 ty: giáo dục, thông tin, công chính và thương chính. Khi khai mạc “Tuần lễ vàng”, ông viết và đọc một bài diễn văn hùng hồn khiến nhiều người dân, trong đó có cô Lê Đỗ Thị Ninh lúc ấy đã 15 tuổi, vô cùng xúc động, đã bỏ tất cả vòng tay, hoa tai vàng ra để hiến cho cách mạng.

Khoảng năm 1947 Hữu Loan làm chủ bút báo “Chiến sỹ” đóng ở miền Trung, dưới quyền có Vũ Cao, tác giả bài thơ “Núi đôi” nổi tiếng và Nguyễn Đình Tiên, tác giả cuốn “Chân dung tướng nguỵ Sài Gòn”. Nguyễn Đình Tiên là cậu họ của Lê Đỗ Thị Ninh.

Một lần trên đường từ Thanh Hoá vào đơn vị Nguyễn Đình Tiên đã nói với Hữu Loan: “Tao thấy con bé Ninh đem va ly quần áo của mày ra phơi và chải đấy”. Hữu Loan ngồi im lặng. Nguyễn Đình Tiên nói thêm: “Hình như chị Kỳ muốn gả nó cho mày”. Hữu Loan gạt đi: “Nó còn nhỏ quá, tao coi nó như em gái mình, lấy làm sao được mà lấy”. Nguyễn Đình Tiên mắng át đi: “Mày lạc hậu lắm. Chị Kỳ dành cho mày mà mày lại không nhận là mày bạc lắm”. Hữu Loan vẫn phân vân. Nguyễn Đình Tiên bồi thêm: “Thôi được rồi để tao thu xếp cho”.

Sau đó Hữu Loan nhận được thư của bà Tham Kỳ gửi vào. Ngày mùng 6 tháng hai (âm lịch) năm 1948, đám cưới của Hữu Loan và Lê Đỗ Thị Ninh được tổ chức tại ấp Thị Long. Đám cưới đúng như Hữu Loan tả trong thơ: “Tôi mặc đồ quân nhân/ đôi giày đinh/ bết bụi đất hành quân/ nàng cười xinh xinh/ bên anh chồng độc đáo”. Hữu Loan nghỉ phép ở bên người vợ trẻ được một thời gian, trong đó có ít ngày hai vợ chồng về thăm quê ông ở Nga Lĩnh, Nga Sơn. Hữu Loan kể rằng có lần hai vợ chồng đi chơi với nhau ở phố Thanh Hóa, Hữu Loan 33 tuổi, để râu ria rậm rạp tự thấy mình già, đi bên cạnh người vợ mới 17 tuổi thì ngượng nên cứ cố ý tụt lại sau. Người vợ trẻ kéo ông đi cạnh mình rồi bảo: “Em thích có người chồng già như anh”.

Sau “tuần trăng mật”, Hữu Loan từ biệt người vợ trẻ trở lại đơn vị lúc ấy đang đóng quân ở Thọ Xuân (Thanh Hóa), cách nhà chừng 100 cây số. Thỉnh thoảng chủ nhật Hữu Loan tranh thủ về thăm vợ. Hạnh phúc của họ thật ngắn ngủi, gần 4 tháng sau ngày cưới, ngày 29 tháng 5 (âm lịch) năm 1948, Lê Đỗ Thị Ninh bị chết đuối tại ấp Thị Long khi đang giặt ở sông Chuồng.

“Gió sớm thu về/ rờn rợn nước sông…”. Con sông dữ, mùa nước lũ ở vùng núi Nưa nước cuồn cuộn đổ về, nàng ra sông giặt, trượt chân ngã và bị nước cuốn đi. “Tôi về/ không gặp nàng. / Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối/ chiếc bình hoa ngày cưới/ thành bình hương/ tàn lạnh vây quanh”. Khó hình dung nổi nỗi đau của Hữu Loan khi nghe tin vợ mất, nàng còn quá trẻ: “Tóc nàng xanh xanh/ ngắn chưa đầy búi. /Em ơi giây phút cuối/ không được nghe nhau nói/ không được nhìn nhau một lần”.

Nhà thơ Vũ Cao sau này kể lại: “Hôm ấy ngồi trong một quán nhỏ ở Thanh Hóa, anh báo cho tôi biết cái tin đột ngột: Lê Đỗ Thị Ninh vừa mất. Bàn tay anh cầm cốc nước run lên bần bật, nước bắn tung tóe xuống bàn, mặt anh tái xanh…”.

Và rồi ba người anh của nàng cũng bàng hoàng. Trung tướng Phạm Hồng Cư kể: “Vào thời gian em Ninh mất tôi và anh Khôi đang ở mặt trận, còn chú Lê Đỗ An (tức Nguyễn Tiên Phong) thì đang công tác ở Trung ương đoàn. Năm 1949 tôi được điều về làm ở phòng chính trị Cục quân huấn của Cục Chính trị Bộ quốc phòng (nay là Tổng Cục chính trị), trong một lần đi họp có gặp anh Võ Trí Sơn, bạn thân của anh Hữu Loan, đồng thời cũng là người bạn của gia đình chúng tôi. Anh Sơn bảo: “Em Ninh chết rồi, em chết đuối”. Tôi choáng váng. Anh Sơn bảo tiếp: “Nó lấy Hữu Loan đấy”. Lúc bấy giờ tôi mới biết em Ninh đã lấy nhà thơ Hữu Loan”. Đúng như Hữu Loan viết trong bài thơ: “Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc/ biết tin em gái mất/ trước khi em lấy chồng”.

Hữu Loan viết “Màu tím hoa sim” năm 1949, khi đang dự chỉnh huấn ở Nghệ An. Ông viết liền một mạch, xong trong vòng hai tiếng đồng hồ, gần như hoàn chỉnh luôn, sau này ông chỉ sửa thêm rất ít. Nó là một phần của cuộc đời Hữu Loan, mà có thể lại là phần đẹp và buồn nhất, nên cho dù ông viết rất thật, rất mộc mạc, nói như Vũ Bằng là “không có gọt rũa, không có văn chương gì cả”, hay như Vũ Cao “không có chữ nghĩa gì cả”, nhưng lại có sức lay động tột cùng và có sức sống mãnh liệt ngay cả trong những giai đoạn mà tác giả và tác phẩm không được thừa nhận.

Nhà thơ Hữu Loan và người vợ sau, bà Phạm Thị Nhu.  
Sau này ông kết duyên và sống trọn đời với người vợ thứ hai là bà Phạm Thị Nhu. “Bà ấy cũng là một người phụ nữ sâu sắc. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé vào mỗi buổi chiều lại lén lút đứng bên ngoài song cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Khi gặp nhau, cô bé ấy mới nói vì đi nghe tôi giảng Kiều nên nhiều hôm để trâu ăn lúa, nên bị bắt phạt. Thì ra cô ta cũng là người có tâm hồn. Khiến tôi vẫn phải suy nghĩ rất nhiều mới có quyết định này. Rất may là sự quyết định của tôi đã không nhầm” - có lần Hữu Loan kể như thế.

Giờ đây ông ra đi sau gần một thế kỷ ở dương thế, nơi mà dấu chân ông đã in suốt chiều dài của cuộc sống thăng trầm nhuộm tím màu hoa sim, về với cõi mộng mơ để rồi lại bước tiếp:

“Qua những đồi hoa sim
Những đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt…”.

Lê Thọ Bình

Màu tím hoa sim

Nàng có ba người anh
Ði bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh

Tôi người vệ quốc quân
Xa gia đình
Yêu nàng
Như tìnhyêu em gái
Ngày hợp hôn
Nàng không đòi may áo cưới
Tôi mặc đồ quân nhân
Ðôi giầy đinh
Bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
Bên ông chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi

Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê ...

Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người em gái nhỏ hậu phương ...
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con
Ðầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh...

Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi!
Giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được trông thấy nhau một lần
Ngày xưa...
Nàng yêu hoa sim tím
Áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
môt mình
đêm khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa.

Môt chiều rừng mưa
Ba người anh
Từ chiến trường Ðông Bắc
Ðược tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng

Gió sớm thu về
Rờn rợn nước sông
Ðứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng trông ảnh chị
Khi gió sớm thu về
Cỏ vàng chân mộ chí

Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
"Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chết sớm mẹ già chưa khâu".

(Hữu Loan)

 

Bình luận
vtcnews.vn