Chuyên gia đầu ngành báo tin vui: 1/3 ca ung thư có thể kiểm soát

Sức khỏeThứ Hai, 19/10/2015 07:29:00 +07:00

PGS- TS Nguyễn Nghiêm Luật, chuyên gia đầu ngành về xét nghiệm, cho biết, khoảng 30% số ca tử vong do ung thư có thể phòng ngừa.

(VTC News) – PGS- TS Nguyễn Nghiêm Luật, chuyên gia đầu ngành về xét nghiệm, trong đó có xét nghiệm ung thư cho biết, khoảng 30% số ca tử vong do ung thư có thể phòng ngừa, kiểm soát.

Ung thư gây chết người nhiều nhất

Ung thư là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn thế giới. Trong năm 2012, có khoảng 14 triệu trường hợp ung thư được phát hiện mới và có đến 8,2 triệu ca tử vong liên quan đến ung thư.

Trong đó, các ca tử vong chủ yếu là do: Ung thư phổi (1,59 triệu ca), ung thư gan (745.000 ca), ung thư dạ dày (723.000 ca), ung thư đại trực tràng (694.000 ca), ung thư vú (521.000 ca), ung thư thực quản (400.000 ca).

Số lượng các ca ung thư mới được dự đoán sẽ tăng khoảng 70% trong vòng hai thập kỷ tới. Dự đoán số trường hợp ung thư hàng năm sẽ tăng từ 14 triệu trong 2012 lên 22 triệu trong vòng 2 thập kỷ tới.

Hơn 60% số các ca ung thư mới hàng năm trên thế giới xảy ra ở Châu Phi, Châu Á, Trung và Nam Mỹ, chiếm 70% số các ca tử vong ung thư thế giới.

Đối với nam giới, 5 ung thư phổ biến nhất được chẩn đoán trong năm 2012 là phổi, tuyến tiền liệt, đại trực tràng, dạ dày và gan. Đối với nữ giới 5 ung thư phổ biến nhất được chẩn đoán là vú, đại trực tràng, phổi, cổ tử cung và dạ dày.

Trăn trở về căn bệnh ung thư gây chết người nhiều nhất trên thế giới, PGS Nguyễn Nghiêm Luật, BV Medlatec chia sẻ: “Ung thư là một nhóm các bệnh liên quan đến việc phân chia tế bào một cách vô tổ chức và có khả năng xâm lấn một cách trực tiếp vào mô lân cận hoặc di chuyển đến những mô xa hơn (còn gọi là di căn). Di căn là nguyên nhân chủ yếu gây tử vong do ung thư. Cho đến nay, khoảng trên 100 loại ung thư ở người đã được phát hiện.

Khoảng 30% các trường hợp tử vong liên quan đến ung thư là do 5 yếu tố nguy cơ hàng đầu về hành vi và chế độ ăn uống: chỉ số khối cơ thể cao (béo phì), ăn ít rau quả tươi, ít tập thể dục, nghiện thuốc lá hoặc  rượu.

Thuốc lá là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất đối với ung thư, gây ra hơn 20% các ca tử vong ung thư và khoảng 70% các ca tử vong do ung thư phổi trên toàn cầu. Ngoài ra, các bệnh nhiễm virus HBV, HCV và một số type Human Papilloma Virus (HPV) là nguyên nhân của trên 20% số các ca tử vong do ung thư ở các nước thu nhập thấp và thu nhập trung bình”.

Ăn uống không lành mạnh: Nguyên nhân gây ung thư hàng đầu

PGS Luật phân tích: “Ung thư thường khởi phát từ một tế bào duy nhất. Sự biến đổi từ một tế bào bình thường thành một tế bào khối u là một quá trình gồm nhiều giai đoạn, là sự tiến triển từ một tổn thương tiền ung thư đến các khối u ác tính.

Ăn nhiều đồ nướng nguy cơ mắc ung thư.
Ăn nhiều đồ nướng nguy cơ mắc ung thư. 
Những thay đổi này là kết quả của sự tương tác giữa các yếu tố di truyền của một người và các tác nhân bên ngoài.


Phần lớn (90-95%) các trường hợp ung thư là do các yếu tố môi trường, 5-10% ung thư còn lại là do di truyền.

Môi trường có nghĩa là bất kỳ nguyên nhân không được thừa kế do di truyền, chẳng hạn như các yếu tố lối sống, kinh tế và hành vi chứ không chỉ đơn thuần là ô nhiễm.

Các yếu tố môi trường góp phần vào con số tử vong do ung thư gồm: thuốc lá (25-30%), chế độ ăn không hợp lý và béo phì (30-35%), nhiễm khuẩn (15-20%), bức xạ (cả hai ion hóa và không ion hóa, 10%), sự căng thẳng (stress), thiếu hoạt động thể chất và các chất ô nhiễm môi trường”.

Theo Phó giáo sư Nguyễn Nghiêm Luật, có 7 yếu tố chính gây ung thư:

Các chất hóa học: Khói thuốc lá (với khoảng trên 70 chất gây ung thư), aflatoxin (có trong nấm mốc  gây ô nhiễm thực phẩm) và Asen (chất gây ô nhiễm nước uống).

Chế độ ăn và tập luyện: Việc sử dụng thuốc lá, rượu, chế độ ăn uống không lành mạnh và thiếu hoạt động thể chất là những yếu tố nguy cơ ung thư chủ yếu trên toàn thế giới [2, 3, 5].

Nhiễm khuẩn: Một số bệnh nhiễm khuẩn mạn cũng là những yếu tố nguy cơ đối với ung thư chủ yếu ở các nước thu nhập thấp và thu nhập trung bình. Virus viêm gan B (HBV), virus viêm gan C (HCV) và một số type của HPV có khả năng gây ung thư gan và cổ tử cung. Nhiễm HIV làm tăng đáng kể nguy cơ mắc bệnh ung thư, đặc biệt là ung thư cổ tử cung.

Nhiễm phóng xạ: Các bức xạ ion hóa như tia X, β, tia γ là các yếu tố gây ung thư rõ rệt; bức xạ không ion hóa (ví dụ: tia tử ngoại của ánh sáng mặt trời) cũng có thể gây ung thư.

Di truyền: Khoảng 0,3% dân số thế giới mang các đột biến gen gây ung thư và có thể gây nên khoảng 3-10% số các ung thư.

Chẳng hạn như: Các đột biến ở các gen BRCA1 và BRCA2 là yếu tố nguy cơ của trên 75% các ung thư vú và ung thư buồng trứng, hội chứng ung thư đại trực tràng không do đa polyp di truyền HNPCC (hereditary nonpolypolyposis colorectal cancer syndrome) với các đột biến trên các gen MLH1, MLH2, MLH3, MLH6, PMS1, PMS và TGFBR2, gây nên khoảng 3% các ung thư đại trực tràng và một số các ung thư khác như ung thư buồng trứng, dạ dày, ruột non, tụy, thận, não và tử cung.

Các yếu tố vật lý: Một số yếu tố vật lý gây ung thư chủ yếu thông qua thể chất của con người mà tác động vào các tế bào. Chẳng hạn, việc tiếp xúc lâu dài với amiăng, len thủy tinh, bột đá, bột coban và niken, tinh thể silica, có thể dẫn đến một số ung thư.

Các hormone: Một số hormone đóng một vai trò trong sự phát triển của ung thư bằng cách thúc đẩy sự tăng sinh tế bào. Yếu tố tăng trưởng giống insulin (Insulin-like growth factor) và các protein liên kết của nó đóng một vai trò quan trọng trong sự sinh sôi tế bào ung thư, sự biệt hóa và sự chết của tế bào theo chương trình (apoptosis), cho thấy khả năng tham gia vào quá trình gây ung thư.

Hormone là yếu tố quan trọng trong các bệnh ung thư liên quan đến giới tính như các ung thư vú, tử cung, tuyến tiền liệt, buồng trứng, tinh hoàn, tuyến giáp và xương.

Con gái của người phụ nữ bị ung thư vú có mức độ estrogen và progesterone cao đáng kể so với con gái của người phụ nữ không bị ung thư vú, ngay cả khi sự vắng mặt của một gen gây ung thư vú.

Đàn ông Châu Phi có mức testosterone và mức độ ung thư tuyến tiền liệt cao hơn nhiều so với đàn ông Châu Âu, trong khi đàn ông Châu Á có mức testosterone thấp nhất thì có mức ung thư tuyến tiền liệt thấp nhất.


Khoảng 30% số ca tử vong do ung thư có thể phòng ngừa

Có một tin vui, ung thư có thể giảm bớt và được kiểm soát bằng cách thực hiện các chiến lược dựa trên các biện pháp phòng ngừa, phát hiện sớm và quản lý ung thư. Nhiều ung thư có cơ hội chữa khỏi nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời.

Hiện nay, hơn 30% số ca tử vong do ung thư có thể được phòng ngừa bằng cách thay đổi cách sống hoặc tránh các yếu tố nguy cơ cơ bản như:

Kiêng hút thuốc lá: Thuốc lá là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất đối với ung thư, gây ra khoảng 20% số ca tử vong do ung thư và khoảng 71% số ca tử vong ung thư phổi trên toàn cầu. Ngoài ra, để tránh mắc ung thư cần kiêng rượu.

Bạn cần thay đổi cách ăn uống (giảm lượng chất bột đường và mỡ động vật) để tránh thừa cân hoặc béo phì. Tăng cường ăn rau quả tươi để có đủ các chất chống oxy hóa, các vitamin và muối khoáng. Tăng cường hoạt động thể chất, tập thể dục mỗi ngày 30-45 phút giúp ngăn chặn ung thư.

Ở các nước có thu nhập thấp, có đến 20% các ca tử vong ung thư là do nhiễm HBV và HPV, vì vậy, theo PGS Luật, cần điều trị nhiễm HBV, HCV hoặc HPV sớm.

Bạn cần tránh phơi nhiễm bức xạ ion hóa (phóng xạ) hoặc bức xạ phi ion hóa (tia tử ngoại: ultraviolet – UV từ ánh nắng mặt trời). Hạn chế tiếp xúc với các chất độc nghề nghiệp và không khí độc hại ở đô thị, tránh hít phải khói bụi do đun than đá, nhựa đường.

Điều quan trọng trong trị ung thư là chẩn đoán sớm. Đây là điều kiện quan trọng nhất quyết định hiệu quả điều trị và làm giảm tỷ lệ tử vong do ung thư.

Một số loại ung thư phổ biến nhất như ung thư vú, ung thư cổ tử cung, ung thư miệng và ung thư đại trực tràng có tỷ lệ chữa khỏi cao khi được phát hiện sớm và điều trị theo phác đồ tốt nhất. Một số loại ung thư khác, mặc dù phổ biến, chẳng hạn như bệnh bạch cầu và u lympho ở trẻ em và ung thư tinh hoàn, cũng có hiệu quả điều trị cao nếu được phát hiện sớm.

Một số loại ung thư có thể biểu hiện các dấu hiệu và triệu chứng ung thư (đối với các ung thư da, cổ tử cung, vú, trực tràng và miệng) nên có thể chẩn đoán và điều trị ở giai đoạn sớm.

Tuy nhiên, nhiều loại ung thư hầu như không biểu hiện dấu hiệu và triệu chứng trong quá trình tiến triển. Vì vậy, việc chẩn đoán ung thư cần phải dựa vào các dấu ấn ung thư, sinh học phân tử, chẩn đoán hình ảnh và tế bào học.

Chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực xét nghiệm cho biết: “Dấu ấn ung thư (hay còn gọi là dấu ấn khối u) là những chất hóa học của cơ thể, thường là các protein, được sản xuất bởi bản thân các tế bào ung thư hoặc đôi khi do cơ thể sản xuất ra để đáp ứng với sự phát triển ung thư.

Do một số các dấu ấn ung thư có thể được phát hiện trong các mẫu xét nghiệm của cơ thể như máu, nước tiểu và các mô nên chúng có thể được sử dụng cùng với các xét nghiệm và các kỹ thuật cận lâm sàng khác để phát hiện và chẩn đoán một số loại ung thư, tiên lượng, theo dõi đáp ứng điều trị và phát hiện tái phát.

Hiện nay, khoảng trên 20 dấu ấn ung thư có thể được thực hiện cho các mục đích này, ví dụ: AFP cho chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan hoặc u tế bào mầm; CA 15-3 cho ung thư vú; NSE, ProGRP, CYFRA 21-1, SCC,… cho ung thư phổi; CA 19-9, CEA cho ung thư tụy; CA 72-4 cho ung thư dạ dày; CEA cho ung thư đại trực tràng; CA 125 cho ung thư buồng trứng,….

Gần đây, một số thay đổi trong vật chất di truyền (các đột biến DNA hoặc sự thể hiện quá mức của gen…) có liên quan với những ung thư nhất định, đã được sử dụng như những dấu ấn ung thư để đánh giá nguy cơ, tiên lượng hoặc hướng dẫn điều trị đích.

Một số ít dấu ấn ung thư có thể được sử dụng để sàng lọc nhằm phát hiện sớm ung thư nhưng chỉ nên thực hiện ở những người có nguy cơ cao.

PGS Luật đưa ra ví dụ, dấu ấn AFP có thể giúp sàng lọc ung thư biểu mô tế bào gan ở những nhóm đối tượng nguy cơ ung thư cao như các bệnh nhân bị viêm gan virus B, C hoặc bệnh nhân xơ gan do các nguyên nhân khác. CA 125 có thể giúp sàng lọc ung thư buồng trứng ở những người có nguy cơ ung thư cao như các bệnh nhân gia đình có người thân bị ung thư buồng trứng.

Free β hCG có thể giúp sàng lọc ung thư nguyên bào lá nuôi (Trophoblastic cancer) ở những bệnh nhân có nguy cơ cao như các bệnh nhân bị chửa trứng (molar pregnancy) hoặc chảy máu tử cung dai dẳng.

PSA, free PSA và tỷ số free PSA/PSA (kết hợp với siêu âm nội soi và sinh thiết tuyến tiền liệt) có thể giúp sàng lọc ung thư tuyến tiền liệt ở người cao tuổi.

Cũng có thể sàng lọc ung thư cổ tử cung bằng cách quan sát trực tiếp với sự trợ giúp của acid acetic VIA (visual inspection with acetic acid) là kỹ thuật rửa cổ tử cung bằng acid acetic từ 3% đến 5% trong một phút và sau đó quan sát sự thay đổi màu sắc ở cổ tử cung bằng mắt thường hoặc xét nghiệm HPV ở các bệnh viện tuyến huyện, xã; xét nghiệm phết tế bào (PAP smear) tìm tế bào ung thư cổ tử cung.

PGS Luật khẳng định: Việc ngăn chặn ung thư hoàn toàn có thể bằng cách ăn uống, lối sống sinh hoạt, ngoài ra, cần dựa vào những tiến bộ y học trong việc phát hiện ung thư sớm bằng các xét nghiệm để có hướng điều trị kịp thời.

Nguyên Tâm

Bình luận
vtcnews.vn