Bắt đầu bước vào thương trường khi đã nghỉ hưu nghề giáo, chỉ một thời gian ngắn điều hành công ty chuyên về khai thác khoáng sản, Thái Lương Trí nổi lên như một doanh nhân thành đạt đất xứ Nghệ. Nhưng ít ai biết rằng, đằng sau cái mác “đại gia” của Thái Lương Trí là một “siêu lừa đảo” với những màn kịch cực kỳ tinh vi, chiếm đoạt hàng chục tỉ đồng của các cá nhân và doanh nghiệp.
“Đại siêu lừa” và chiêu hất cẳng cổ đông
Nếu ai từng một lần gặp Thái Lương Trí (sinh năm 1940), hẳn sẽ rất ngạc nhiên bởi phong thái đạo mạo và rất ra dáng một quan chức chứ không phải là một giáo viên cấp 3 với 25 năm cầm phấn trên bục giảng. Năm 1990, Trí nghỉ công tác tại trường cấp 3 huyện Tương Dương (Nghệ An) về Vinh sinh sống, đến năm 1996, bước sang tuổi 66, Thái Lương Trí lập công ty TNHH Thái Dương Nghệ An do mình làm giám đốc, có trụ sở tại TP Vinh với chức năng kinh doanh khai thác, chế biến lâm sản, khảo sát thăm dò và mua bán khoáng sản. Tuy mới bước chân vào thương trường đầy cạm bẫy nhưng Thái Lương Trí lại tỏ ra là một con người đầy mánh khóe tinh vi trong cuộc làm ăn của y ở bên nước bạn Lào.
Sau một thời gian thành lập công ty, Thái Lương Trí nổi lên như một doanh nhân thành đạt, trở thành một “đại gia” trong giới doanh nhân xứ Nghệ. Trong thời gian kinh doanh với các đối tác bên Lào, nhận thấy việc khai thác mỏ bên nước bạn có nhiều thuận lợi, Thái Lương Trí đã tìm gặp ông Đoàn Văn Huấn, GĐ Công ty CP dịch vụ dạy nghề Thái Dương Hà Nội (nay là Tập đoàn Thái Dương Hà Nội) kêu gọi góp vốn với một đối tác của nước Lào là công ty Thảo Oong Khăm để khai thác quặng tại mỏ Huổi Chừn (Lào). Tin tưởng vào mối quan hệ thân thiết bấy lâu, cũng như những giấy tờ giao kèo hợp pháp mà Trí đưa ra, ông Huấn đã giao gần 11 tỷ đồng, mà không hay biết, mình chỉ là một con cờ trong kế hoạch lừa đảo của y. Cũng với chiêu thức trên, Trí đã dụ thêm một cá nhân khác là bà Chu Thị Thành, GĐ Công ty TNHH Thiên Phú (Nghệ An) để có được 12 tỷ đồng từ công ty này.
Theo bản cáo trạng số 07/VKSTC-V2 ngày 20/7/2010 của VKSNDTC từ tháng 1/2004, Thái Lương Trí đại diện Cty TNHH Thái Dương Nghệ An ký kết liên doanh với ông Sivilay, Giám đốc Công ty TNHH Thảo Oong Khăm (Lào) để tìm kiếm, thăm dò và khai thác khoáng sản tại bản Huổi Chừn, huyện Sầm Tờ, tỉnh Hủa Phăn (Lào). Để có hồ sơ trình Bộ Kế hoạch và Đầu tư VN cấp giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài, đầu tháng 6/2006, Thái Lương Trí làm giả một bộ hồ sơ có chữ ký của ông Sivilay gửi lên Bộ KHĐT để thành lập Công ty liên doanh Đại Phú (không có thật) tại Lào, xin giấy phép đầu tư ra nước ngoài và gửi báo cáo lên Đại sứ quán Lào tại VN và Đại sứ quán VN tại Lào. Do hành vi giả mạo chữ ký, ngày 25/5/2007, ông Sivilay đã có đơn tố cáo Thái Lương Trí lên các cơ quan chức năng của Lào xem xét.
Do ở thời điểm này, Thái Lương Trí đang bị Cơ quan an ninh Lào điều tra, nên y đã thành lập nhiều công ty không có thật ở thành phố Vinh (Nghệ An) như Công ty Cổ phần khoáng sản Tân Thái Dương ngày 29/7/2007; Công ty cổ phần đa khoáng sản Thái Dương ngày 10/8/2007 và đưa tên các cá nhân là ông Huấn và bà Thành vào vai trò cổ đông của hai công ty trên nhằm tiếp tục thực hiện mục đích kiếm tiền bất hợp pháp của y.
Ngày 19/10/2007 ngay sau khi được Bộ Tư pháp Lào tổ chức hòa giải mâu thuẫn giữa công ty Thái Dương Nghệ An và công ty Thảo Oong Khăm, Thái Lương Trí đã đề nghị với ông Đoàn Văn Huấn cho mượn 11,25% cổ phần, bà Chu Thị Thành 3% cổ phần (cao hơn ông Sivilay 35%) để được làm Chủ tịch HĐQT điều hành công ty CP khoáng sản Lào – Việt. Ngay sau khi Trí được làm Chủ tịch HĐQT, ông Huấn, bà Thành đòi lại số cổ phần mà Thái Lương Trí đã mượn, nhưng Trí đã trở mặt không chịu trả và chiếm số cổ phần đã mượn này.
Từ đây, chân dung lừa đảo của Thái Lương Trí bắt đầu lộ rõ cùng với những màn kịch tinh vi khác nhằm chiếm đoạt tiền mà các cổ đông đã góp vốn vào công ty Lào – Việt.Để hất cẳng các cổ đông là ông Huấn và bà Thành ra khỏi công ty Lào – Việt, ngay rong tháng 3/2008, Thái Lương Trí đã giao cho Dương Minh Hải, là Phó giám đốc công ty Thái Dương Nghệ An sang Lào làm hồ sơ xin giấy phép đăng ký kinh doanh riêng mà không thông báo cho các cổ đông biết và làm thủ tục xin phép khắc con dấu khác của công ty Lào – Việt tại Lào. Để thực hiện được việc này, Trí đã bỏ ra 1 triệu USD giao cho Hải “móc nối” với Mai Dalee (một Việt Kiều Lào) lo lót các thủ tục liên quan và chi phí để liên hệ ký hợp đồng cấp giấy phép khai thác, trong đó chỉ có hai cổ đông sáng lập là Thái Lương Trí và ông Sivilay mà không có hai cổ đông Việt Nam khác là ông Huấn và bà Thành.
Để hợp lý hóa thắc mắc phía Lào, Thái Lương Trí đã viết cam kết “sẽ tự giải quyết mâu thuẫn giữa các cổ đông VN theo pháp luật VN”. Vì vậy, Bộ KHĐT Lào đã cấp giấy phép số 157-08 ngày 18/12/2008 cho công ty Lào – Việt, trong đó không có tên ông Huấn và bà Thành. Sau khi có giấy phép 157-08, Thái Lương Trí đã không giải quyết những kiến nghị của ông Huấn và bà Thành, không thực hiện việc hòa giải của Bộ KHĐT VN và ý kiến chỉ đạo của Chính phủ VN mà còn lôi kéo Dương Minh Hải tiếp tục xin giấy phép khai thác, soạn thảo điều lệ công ty trong đó nêu rõ: Công ty Lào – Việt chỉ có hai cổ đông sáng lập là Thái Dương Trí và ông Oong Khăm Sivilay.
Ngày 29/4/2009, Trí tự ý tổ chức họp công ty, ký quyết định bổ nhiệm chức danh Phó giám đốc Công ty Lào – Việt cho con trai là Thái Lương Thứ và Dương Minh Hải, trưởng phòng kế hoạch cho con trai là Thái Lương Thành. Đến đây, Trí hoàn thành “kịch bản” hất cẳng hai cổ đông ra khỏi công ty.
Dương Minh Hải (đứng giữa), đồng phạm cùng Thái Lương Trí
Những ẩn khuất đằng sau vụ án?
Căn cứ kết quả điều tra, ngày 20/7/2010 Viện KSNDTC đã ra bản cáo trạng số 07/VKSTC-V2 truy tố 2 bị can Thái Lương Trí và Dương Minh Hải tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” và tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Bộ Luật hình sự nước CHXHCN Việt Nam.
Tuy nhiên, nhiều bị hại vẫn viết đơn kiến nghị với các cơ quan chức năng xem xét lại hành vi của Thái Lương Trí, đồng thời, cần điều tra một số cá nhân giúp sức cho Thái Lương Trí là Thái Lương Thứ và Thái Lương Thành. Bởi qua những việc làm của Trí, có thể thấy rằng hành vi phạm tội của Thái Lương Trí mặc dù đã được tính toán kỹ lưỡng rất tinh vi và được chuẩn bị từ trước nhưng không thể thực hiện một mình nếu không có sự giúp sức của các cá nhân khác.Bởi tại thời điểm Thái Lương Trí đang bị cơ quan chức năng của Lào tiến hành điều tra hành vi gian lận hợp đồng và giả mạo chữ ký của Sivilay nhưng Trí vẫn đưa ra các tài liệu, giấy tờ ký kết cũng như thuyết trình các dự án khả thi khi hợp tác với Sivilay cho các cổ đông (ông Huấn và bà Thành) tham gia góp vốn.
Đồng thời, trong Biên bản họp Hội đồng thành viên của công ty Thái Dương Nghệ An, 6 thành viên của công ty (đều là vợ, con và người thân của Thái Lương Trí) vẫn chấp thuận ký kết với nội dung đồng ý cho ôngHuấn, bà Thành góp vốn vào dự án liên doanh với Sivilay. Thâm hiểm hơn, Trí còn cố tình ký hợp đồng lùi thời gian lại 1 năm với ông Huấn để có căn cứ pháp lý sử dụng pháp nhân, giấy tờ liên doanh hợp tác với phía Lào.
Sau khi công ty Lào – Việt chính thức hoạt động theo giấy chứng nhận đầu tư số 006-08 ngày 8/1/2008 do Bộ KHĐT của Lào cấp, Thái Lương Trí đã tìm cách làm con dấu giả, lập hồ sơ, giấy tờ giả để hất chân cổ đông là ông Huấn và bà Thành ra khỏi công ty. Việc Trí lừa ông Huấn và bà Thành để được mượn cổ phần đã có tính toán rất kỹ lưỡng.
Mặt khác, khi xin cấp phép khai thác khoáng sản tại mỏ Huổi Chừn không có tên Đoàn Văn Huấn và Chu Thị Thành, cơ quan có thẩm quyền Lào nhận thấy có vấn đề khuất tất thì Trí đã viết cam kết gửi Bộ KHĐT Lào khẳng định: “Sẽ tự giải quyếtmâu thuẫn với các cổ đông Việt Nam theo pháp luật Việt Nam”. Chính vì không biết động cơ lừa đảo của Trí, Bộ KHĐT Lào đã cấp giấy phép mới số 157-08/KHĐT ngày 18/12/2008 cho công ty Liên doanh Lào – Việt mà không có tên ông Huấn và bà Thành. Như vậy, nếu Trí không trình giấy tờ,hồ sơ giả và viết cam kết thì chắc chắn sẽ không đạt được mục đích của mình.
Ngoài ra, trong vụ án này, cũng cần làm rõ hành vi của một số cá nhân khác giúp sức cho trí lừa đảo. Tuy Trí cho rằng, tất cả các chữ ký đó đều do cá nhân tự ký nhận nhưng không được cơ quan chức năng điều tra, giám định. Trong vụ án này, ngoài ông Huấn và bà Thành, còn rất nhiều công ty, cá nhân khác tố cáo Thái Lương Trí lừa đảo chiếm đoạt hàng chục tỉ đồng cũng bằng thủ đoạn liên doanh, hợp tác khai thác mỏ tại Lào. Nhiều nhất là ông Nguyễn Đường Dần, giám đốc công ty Cổ phần Ánh Dương (Nghệ An), bị Thái Lương Trí lừa đảo gần 15 tỉ, ông Đặng Xuân Quý (Thanh Hóa) hơn 1 tỉ, ông Nguyễn Văn Hòa (Thái Nguyên) 2 tỉ. Tổng số tiền mà hơn 20 cá nhân, công ty này rơi vào tay Thái Lương Trí gần 30 tỉ đồng.
Với những ẩn khuất và những hành vi thủ đoạn của Trí như đã nêu cho thấy Trí lừa đảo đã quá rõ ràng và cực kỳ tinh vi chứ không đơn thuần là “lạm dụng tín nhiệm”. Đề nghị các cơ quan tư pháp cần điều tra làm rõ để trả lời công luận và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các bị hại.
Theo Phùng Bình/KTĐT
Bình luận