Từ đường Hồ Chí Minh trên biển đến giải phóng Trường Sa

Thời sựThứ Năm, 22/09/2011 10:55:00 +07:00

(VTC News) – Từ sau ngày giải phóng Song Tử Tây, trên vùng biển quần đảo Trường Sa xuất hiện nhiều tàu và máy bay lạ…

(VTC News) – Từ sau ngày giải phóng Song Tử Tây, trên vùng biển quần đảo Trường Sa xuất hiện nhiều tàu và máy bay lạ…

 
Lời Toà soạn: Đường Hồ Chí Minh, con đường huyền thoại trong lịch sử, là biểu trưng cho ý chí và sức sáng tạo Việt Nam. Con đường ấy còn là niềm tự hào, nguồn cổ động lớn lao với những chiến sĩ trên những “con tàu không số” năm xưa.

Hôm nay, 22/9, Bộ Quốc phòng tổ chức Hội thảo về “50 năm Đường Hồ Chí Minh trên biển”. Nhân dịp này,  VTC News xin trích  giới thiệu bài viết của Thượng tá, Thạc sĩ Ngô Nhật Dương, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

 

Một con "tàu không số". Ảnh: Tư liệu quân đội 

 

Từ cuối năm 1974, tình hình cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có nhiều chuyển biến, so sánh lực lượng ngày càng có lợi cho ta. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng hạ quyết tâm sớm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

 

Quân chủng Hải quân đã ra nghị quyết về chấn chỉnh lực lượng cho phù hợp với nhiệm vụ, nhằm phát huy sức mạnh chiến đấu…

 

Khi thời cơ đến

 

Quân chủng Hải quân khẩn trương tăng cường tàu thuyền, vũ khí trang bị mạnh cho các đơn vị, đặc biệt là Đoàn 125 và Trung đoàn 126. Đồng thời huy động tối đa các lực lượng vận chuyển người và vũ khí vào miền Nam.

 

Đầu tháng 3/1975, chiến dịch Tây Nguyên mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 bắt đầu. Sau 20 ngày chiến đấu, ta xoá sổ Quân đoàn 2, Quân khu 2 của quân đội Sài Gòn, giải phóng Tây Nguyên.

 

Tiếp đó ta mở chiến dịch Trị Thiên – Huế và chiến dịch Đà Nẵng. Trong gần 10 ngày chiến đấu, ta tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 1, Quân khu 1 của địch, giải phóng 5 tỉnh miền Trung, tạo điều kiện cho việc thiết lập các căn cứ hậu cần, kỹ thuật ven biển.

Ngày 4/4/1975, Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho Khu uỷ, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 và Bộ Tư lệnh Hải quân phải “nghiên cứu và chỉ đạo thực hiện gấp rút, nhằm thời cơ thuận lợi nhất đánh chiếm các đảo do quân nguỵ Sài Gòn chiếm thuộc quần đảo Trường Sa”.

 

Do tình hình chiến sự miền Nam phát triển rất nhanh, Bộ Tổng tham mưu ra lệnh cho Bộ Tư lệnh Hải quân nhanh chóng giải phóng Trường Sa, không để cho các lực lượng khác vào đánh.

 

Chấp hành chỉ thị của Bộ Tổng tham mưu, Quân chủng Hải quân nhanh chóng triển khai kế hoạch vận chuyển bộ đội, vũ khí, trang bị kỹ thuật với số lượng cao nhất, thời gian nhanh nhất và an toàn vào mặt trận.

 

Đoàn 125 được phân công là lực lượng chủ yếu thực hiện nhiệm vụ này. Lực lượng kỹ thuật gồm Trung đội trinh sát kỹ thuật của Đội 7, Trung đội thông tin của Trung đoàn 602 cùng hàng chục tấn vũ khí các loại do Trung đoàn 126 chỉ huy, lên đường vào Nam trước.

 

Đồng thời, Tư lệnh Hải quân cử cán bộ vào quân cảng Đà Nẵng để quán triệt quyết tâm, triển khai kế hoạch tác chiến cho lực lượng Đà Nẵng và chỉ thị cho đồng chí Phó Tư lệnh ở Sở chỉ huy phía trước hiệp đồng chặt chẽ với Quân khu 5, tổ chức tiến công giải phóng quần đảo Trường Sa.

 

Quần đảo Trường Sa là cụm đảo xa nhất của Việt Nam về phía Đông, nằm dài trên tuyến biển Bắc – Nam. Trong quần đảo này, có 11 đảo có thể ở được nhưng cách nhau khá xa, xung quanh có các bãi san hô bao bọc, nên rất khó khăn cho các phương tiện và lực lượng đổ bộ.

 

Những con tàu làm nên huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển.
Ảnh: Tư lệu quân đội
 


Các đảo có người do quân đội của 3 nước đóng giữ, trong đó Đài Loan đóng giữ đảo Thái Bình (Ba Bình), Philippines đóng giữ một số đảo, quân đội Sài Gòn đóng giữ đảo Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa. Trong 5 đảo đó, có khoảng 150 lính bảo an thuộc tiểu đoàn 371 Phước Tuy chốt giữ.

 

Đảo Nam Yết là nơi đặt sở chỉ huy của địch với 56 quân, đảo Song Tử Tây có 39 quân, còn các đảo khác, mỗi đảo khoảng 20 quân. Vũ khí trên đảo, ngoài các loại vũ khí bộ binh, địch còn trang bị thêm hoả lực DKZ và cối.

 

Địch tổ chức phòng ngự dàn mỏng, quanh đảo bố trí hàng rào kẽm gai và chướng ngại vật, các đảo có nhà hầm được xây dựng từ lâu.

 

Do ta đánh khá mạnh trên đất liền nên từ lâu địch chưa kịp tiếp viện, khả năng ứng cứu của địch ra đảo rất hạn chế. Tinh thần binh lính trên đảo dao động khi được nghe các bản tin về tình hình chiến sự trên đất liền.

 

Trước đây, quân đội Sài Gòn thường xuyên bố trí từ 1 đến 2 tàu, có lúc tăng đến 3 tàu tiếp tế, bảo vệ quần đảo Trường Sa. Ngày 26/3/1975, địch điều tàu HQ3 đang bảo vệ đảo về Đà Nẵng nên lúc này, địch không có tàu ở đảo. Lực lượng hải quân địch ở ngoài khơi hoạt động cầm chừng, chủ yếu là tập trung vào kế hoạch di tản. Các đảo khác do nước ngoài đóng vẫn giữ thái độ im lặng.

 

Xuất quân

 

Quân chủng Hải quân khẩn trương tiến hành công tác chuẩn bị chiến đấu giải phóng Trường Sa. Quyết tâm của Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh là bám sát tình hình, tranh thủ thời cơ có lợi nhất để giải phóng đảo, kiên quyết không cho lực lượng nào khác đến đánh chiếm đảo trước ta, sử dụng tàu của Đoàn 125 và bội đội đặc công của Trung đoàn 126 thực hiện nhiệm vụ.

 

Ngày 9/4, trong lúc các cánh quân lớn trên đất liền của ta bắt đầu tiến công mãnh liệt vào thị xã Xuân Lộc, Tân An là những tuyến phòng thủ vòng ngoài của Sài Gòn, thì Bộ Tư lệnh và bộ phận tiền phương của Hải quân được nhận lệnh của Quân uỷ Trung ương giao cho nhiệm vụ đánh chiếm đảo Song Tử Tây.

 

Ngày 10/4, Hải quân cấp tốc điều 3 tàu vận tải của Đoàn 125 từ Hải Phòng vào Đà Nẵng. Tàu vừa cập bến, lực lượng kỹ thuật ngay lập tức bắt tay vào công tác chuẩn bị: tàu được kiểm tra kỹ thuật, các đơn vị nhận bổ sung đủ cơ số vũ khí trang bị rồi rời bến. Lực lượng chiến đấu gồm Đội 1 của Trung đoàn 126, một số đặc công của Quân khu 5 và tỉnh Khánh Hoà do Trung tá Mai Năng – Trung đoàn trưởng Trung đoàn 26 chỉ huy.

 

Mặc dù đảo Song Tử Tây ở giữa biển Đông, cách xa Đà Nẵng tới 800km, nhưng đã bao năm nay, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 125 từng vào Nam ra Bắc, từng lăn lội với đường Hồ Chí Minh trên biển để vận chuyển vũ khí trang bị kỹ thuật, nên con đường này trở thành thân quen và giúp họ nhanh chóng đưa bộ binh cùng vũ khí, trang bị tới vị trí chiến đấu đúng thời gian quy định.

 

Đổ bộ và tiến công

 

Sau 3 ngày đêm vật lộn với sóng biển, 19 giờ ngày 13/4, tàu 673 đã trở lực lượng chiến đấu tiếp cận đảo. Tàu 674 và 675 vòng ra án ngữ ở phía Bắc và Nam đảo, sẵn sàng chi viện khi cần thiết. Rạng sáng ngày 14, các phân đội chiến đấu bí mật đổ bộ.

 

Sau 2 giờ vật lộn với dòng nước xoáy, lực lượng đổ bộ đã bám được vào mép đảo. Đồng chí Nguyễn Ngọc Quế, Đội trưởng Đội 1, chỉ huy trận đánh, chia đơn vị làm 3 mũi áp sát mục tiêu. Đúng 4 giờ 30 phút ngày 14/4, quả đạn cối đầu tiên nổ là hiệu lệnh hiệp đồng cho toàn đơn vị tiến công.

 

Do được bảo đảm tốt về vũ khí đạn dược nên hoả lực các cỡ của quân ta nổ giòn giã, tới tấp nã đạn vào công sự của địch, Bị đánh bất ngờ, địch hoang mang, chống trả rất yếu ớt.

 

Bộ đội ta lần lượt đánh chiếm hết công sự này đến công sự khác. Sau 30 phút chiến đấu, ta hoàn toàn làm chủ trận địa, toàn bộ quân địch trên đảo hoặc bị bắt hoặc đầu hàng. Lá cờ giải phóng được kéo lên đỉnh cột cờ, trước bia chủ quyền lúc 5 giờ ngày 14/4/1975.

 

Từ sau giải phóng đảo Song Tử Tây, trên vùng biển quần đảo Trường Sa xuất hiện nhiều tàu và máy bay lạ. Rút kinh nghiệm phòng tránh trong những năm vận chuyển vũ khí vào Nam bằng đường Hồ Chí Minh trên biển nên ta không để sự việc gì xảy ra. Sau khi rút kinh nghiệm, củng cố lực lượng, bổ sung vũ khí trang bị, ta tiếp tục giải phóng các đảo còn lại.

 

Đúng 4 giờ sáng ngày 21/4, các tàu của ta nhổ neo tiến về phía các đảo. Lúc 1 giờ 30 phút ngày 25, tàu 641 đổ bộ thành công lên đảo Sơn Ca. 2 giờ 30 phút, các cỡ súng của ta nổ mãnh liệt. Bị đánh bất ngờ, quân địch trên đảo chống cự yếu ớt rồi đầu hàng. Lực lượng bảo đảm kỹ thuật có thêm 2 máy vô tuyến, 4 máy điện thoại, 2 xuồng máy, 1 máy nổ, 4 phuy xăng và nhiều vũ khí, chiến lợi phẩm.

 

Chiến thắng

 

20 giờ ngày 26/4, đài kỹ thuật của ta bắt được điện của sở chỉ huy địch lệnh cho quân rút khỏi đảo Nam Yết. 10 giờ 30 phút ngày 27, lực lượng trên tàu 673 hành quân đổ bộ lên đảo. Các tàu chở quân vội vàng bỏ chạy. Sau khi để lại lực lượng chốt giữ đảo, tàu 673 tiếp tục hành trình trên biển đi giải phóng đảo Sinh Tồn.

 

Cũng như đảo Nam Yết, quân địch ở đây đã rút chạy từ ngày 27. Trưa 28, ta làm chủ hoàn toàn đảo. Sau đó, tàu 673 lại đưa lực lượng ra đảo Trường Sa là đảo xa nhất ở phía Nam quần đảo. Sáng 29, phân đội chiến đấu cuối cùng của Trung đoàn 126 đx hoàn toàn làm chủ đảo Trường Sa, kết thúc nhiệm vụ chiến đấu đặc biệt quan trọng của Quân uỷ Trung ương giao cho Quân chủng Hải quân.

 

Sau gần 20 ngày đêm chiến đấu, các  chiến sĩ Hải quân Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giải phóng quần đảo Trường Sa do quân đội Sài Gòn chiếm giữ..., góp phần vào chiến thắng vĩ đạo mùa Xuân 1975, giải phóng đất nước.

 

 

Thượng tá, Thạc sĩ Ngô Nhật Dương

(Viện Lịch sử quân sự Việt Nam)

Bình luận
vtcnews.vn